(Thái Linh dịch)
Đây là một bài thơ
xúc động của Szymborska về nỗi ngạc nhiên mà tất cả
chúng ta thuở nào đều từng có khi khám phá sự vận
hành của thế giới. Ta hãy xếp bài thơ này vào miền
ngây thơ mà đối với chúng ta vẫn luôn là quý giá.
Nhưng về bản chất, bài thơ lại không ngây thơ.
Bởi khám phá „luật
hấp dẫn” nghĩa là gì? Không gì xa lạ với các câu
chuyện cổ tích hơn định luật này. Ta phải biết bứt
lên khỏi mặt đất, ví dụ bay vút lên, hoặc nhảy qua
cửa sổ và bay như Margarita của Bulgakov để tham gia vào
Đêm Phù thủy, hay cưỡi chổi như Harry Porter. Cô bé con
trong bài thơ của Szymborska đã đi trước Newton, người
cũng ngạc nhiên vì quả táo rơi xuống đất và đã miêu
tả điều này như một định luật. Nhưng định luật đó
là gì? Cô bé con còn có rất nhiều khám phá ở phía
trước, những khám phá đều dẫn đến một điều: rằng
thời gian tồn tại và trong nó diễn ra sự lớn lên,
trưởng thành, già đi và chết. Em cũng sẽ khám phá về
sự mất mát những người thân bất khả vãn hồi. Em sẽ
hiểu những chuyện đã rồi thì không thể thay đổi, bởi
thời gian chỉ vận hành một chiều bằng sức mạnh của
những sự kiện bất khả tư nghì. Nói cách khác, em sẽ
biết rằng luật hấp dẫn có thể gọi khác đi là định
luật của những điều tất yếu liên kết với nhau trong
sợi dây xích nhân quả. Có thể nói rằng tất cả mọi
thứ khác, toàn bộ thế giới thần tiên của những ấn
tượng, âm thanh, màu sắc, xúc giác chỉ là sự trang
hoàng diễm lệ mà phía sau nó, cái tất yếu ẩn mình.
Người ta ít suy nghĩ
về tất cả những điều này, nhưng có một triết gia đã
đặt câu hỏi: „Rồi, tôi làm văng cái cốc ra khỏi
bàn, nó rơi xuống và vỡ. Những tại sao chúng ta lại
học được cách coi điều đó là bình thường? Chẳng
phải đó là thử thách cho ý chí tự do của chúng ta sao?
Chẳng phải đó sự xâm phạm ý chí ấy một cách rõ
ràng hay sao? Vì sao chúng ta phải vờ như điều đó không
xúc phạm chúng ta? Vậy là chúng ta phải đầu hàng và
giả vờ rằng chúng ta thích nó? Nhưng nếu luật tất yếu
chi phối tất cả, thì có nghĩa là ngay ý muốn của
Thượng đế cũng bị nó giới hạn? Tôi sẽ nói cho các
bạn biết một sự thật mà chẳng ai muốn công nhận:
rằng toàn bộ nền triết học, khởi đầu từ các triết
gia Hy Lạp cổ đại, không gì khác hơn chính là chủ
nghĩa khắc kỷ dưới các lớp giả trang khác nhau, bởi
nguyên tắc của chủ nghĩa khắc kỷ là: hãy cười giễu
và chịu đựng như chẳng có chuyện gì”. Triết gia ấy
là Lev Shestov1.
Thực ra, ông đã có tiền nhân - triết gia Đan Mạch Soren
Kierkegaard, người có tinh thần gần gũi với ông.
Kierkegaard cho rằng bất chấp những sự hiển nhiên, chúng
ta phải tin vào tự do vô tận của Thượng đế, người
nếu muốn có thể hành động trái ngược với các luật
lệ của vạn vật. Thậm chí ngài có thể xoay ngược
dòng chảy thời gian để những điều đã xảy ra trở
nên vô hiệu và trả lại Regina Olsen2
cho ông. Kierkegaard, cũng như Shestov, là kẻ thù với mọi
biến thể của chủ nghĩa khắc kỷ, kể cả những biến
thể dưới lớp mặt nạ của việc quy thuận các quy luật
lịch sử, và tất nhiên là ông không chịu đựng nổi
Hegel.
Song chúng ta hãy đi
tiếp theo cái mạch ẩn giấu dưới các thử nghiệm của
cô bé con. Shestov là nhà nghiên cứu nhiệt thành về những
nọc độc ẩn giấu trong các tác phẩm của Dostoyevsky.
Trong „Bút ký dưới hầm”, Dostoyevsky sáng tạo ra nhân
vật „người dưới hầm”, một nhân vật kinh tởm, bẩn
thỉu và đố kị, nhưng ông lại khiến hắn trở thành
người chuyên chở một sự thật tàn bạo. Sự thật rằng
trái đất lệ thuộc vào những sợi xích nhân quả, rằng
trái tim con người nổi loạn chống lại điều đó song
chẳng làm được gì, và con người chỉ còn lại một
việc duy nhất là kêu lên sự phản kháng của mình.
„Người dưới hầm” kêu lên: „tôi không muốn, tôi
không muốn cái điều tất yếu có lý, tôi không muốn
hai với hai là bốn. Tôi chỉ có ý chí tự do của mình
để chống lại trật tự của mặt đất này. Nhưng tôi
sẽ nói lên sự bất đồng của mình đến cùng.” Ở
đây, Dostoyevsky nói ra cái điều ông đã thể hiện trong
bức thư nổi tiếng gửi bà Fonvizin3,
nơi ông viết: nếu tất cả những gì khoa học chứng
minh về sự tất yếu của vạn vật trái ngược với các
yếu tố siêu tự nhiên mà hiện thân là Chúa trong sách
Phúc Âm, và nếu khoa học có lý, thì tôi không chọn nó
mà chọn Chúa. Có thể sự phản kháng nguy hiểm một cách
cực đoan ấy là chìa khóa cho toàn bộ sáng tác của
Dostoyevsky. Và ông hồ như yếu đuối khi nói về niềm
tin, bởi Ivan Karamazov – gần như là một bản sao của
ông – đã đặt ra „Huyền thoại về viên Đại Pháp
quan”. Đó là truyện ngụ ngôn mà chiều sâu của nó
đôi khi được so sánh với những gì ghi trong sách Phúc
Âm. Viên Đại Pháp quan, sản phẩm trí tưởng tượng của
kẻ vô thần Ivan, đã cai trị xã hội do hắn tổ chức,
khi hắn đi đến kết luận rằng Kitô đã lầm. Khi bị
con quỷ trên sa mạc cám dỗ, Kitô đã từ chối ba cám dỗ
của hắn. Tất cả chúng ta đều cho rằng việc đá không
thể biến thành bánh mì là điều hiển nhiên và rõ ràng.
Kẻ cám dỗ kêu gọi quyền năng linh thánh của Kitô hãy
phá vỡ điều hiển nhiên này và biến đá thành bánh mì.
Nếu Kitô thực hiện điều đó, ngài có thể trở thành
ân nhân của loài người và có thể nuôi sống hết những
người đói ăn. Nhưng ngài đã từ chối cám dỗ này.
Tiếp theo, kẻ cám dỗ đưa ngài lên nóc đền thờ và
thách ngài nhảy xuống dưới, vì các thiên thần sẽ giữ
ngài lại. Một lần nữa con quỷ lại kêu gọi nổi loạn
chống lại sự hiểu biết hiển nhiên của chúng ta về
sự rơi của mọi vật xuống mặt đất. Một lần nữa
Kitô lại kháng cự được cám dỗ và chỉ ra rằng ngài
chẳng muốn liên quan gì đến những điều hiển nhiên
trần thế. Và cuối cùng là cám dỗ thứ ba, nhắm đến
bản tính người trong Kitô, như đã biết, là bản tính
trước nhất khao khát quyền lực. Từ chối việc giành
được quyền lực đối với tất cả các vương quốc
trên thế gian, tương tự như việc từ chối biến đá
thành bánh mì, biểu hiện việc Kitô từ bỏ sự tạo
dựng một xã hội hạnh phúc lý tưởng. Nếu đã như
thế, viên Đại Pháp quan nghĩ, thì tôi sẽ thiết lập
một trật tự thuận với tất cả những điều rõ ràng,
hiển nhiên và bất di bất dịch, kể cả thuận với thực
tế rằng con người là những nô lệ bẩm sinh và họ chỉ
có thể hạnh phúc khi có ai đó bảo đảm cho họ cái ăn
và sự an toàn, dẫu rằng không có tự do. Khi Kitô giáng
thế lần nữa, viên Đại Pháp quan bỏ tù ngài, vì sự
có mặt của người khách này đe dọa gây ra rối loạn
cho trật tự đã được thiết lập. Cuối cùng hắn thả
ngài ra và yêu cầu ngài đừng trở lại thêm lần nào
nữa. Kitô không nói gì, chỉ đặt lên má viên Pháp quan
một nụ hôn. Kẻ vô thần Ivan đã đưa vào ngụ ngôn này
viễn cảnh tiên tri của một xã hội lý tưởng được
xây dựng bởi những người cộng sản. Thậm chí có thể
diễn giải nụ hôn bí ẩn của Kitô như là hành động
thương hại của ngài công nhận thiện ý của các nhà
cách mạng khi họ lao động vô ích.
Tại đây tôi nhớ
đến trường ca „Mười hai người” của Aleksandr Blok,
trong đó trên trán những người lính hồng quân „mang
vòng hoa hồng bạch trước Chúa Giê-su”. Và một liên
tưởng nữa: sự hiển nhiên của các định luật trong
thế giới này chính là điều Simone Weil4
từng gọi là pesanteur, sức nặng. Bà là người theo tất định luận cực đoan, bà cho rằng tất cả mọi
thứ, kể cả đời sống tinh thần của con người, đều
giải thích được bằng các nguyên nhân có thể khám phá.
Ngoại lệ duy nhất là thiên ân chống lại sức nặng ấy,
và như vậy hồ như đó là nụ hôn im lặng của Kitô
trên gương mặt viên Đại Pháp quan.
Như đã thấy, sau bài
thơ vô tội của Wisława Szymborska ẩn giấu một vực thẳm
mà ta có thể rơi mãi vào đó gần như vô cùng, một mê
cung tăm tối mà dù muốn dù không chúng ta vẫn ghé thăm
trong cuộc đời mình.
(theo tạp chí Dekada Literacka, số 5-6 năm 2003)
---------
1Lev
Shestov (1866-1935) – triết gia và nhà văn Nga, một trong
những tiền khu của chủ nghĩa hiện sinh. Sau cách mạng
1917 sống lưu vong ở Tây Âu
2Regina
Olsen – người yêu thời trẻ của Kierkegaard, đã chia
tay với ông vì thấy ông yêu triết học hơn nàng
3Bà
Fonvizin – vợ một nhà cách mạng tháng Chạp (1825) từng
tiếp xúc với Dostoyevsky. Miłosz nhắc đến bức thư nổi
tiếng của Dostoyevsky gửi bà, viết vào cuối 1853
4Simone
Weil (1909-1943) – nữ nhà văn và triết gia Pháp. „Sức
nặng và thiên ân” là tên một tác phẩm nổi tiếng
của bà
*Czesław
Miłosz (1911-2004) – nhà thơ lớn của Ba Lan, nhà viết
tiểu luận, nhà văn, dịch giả, nhà ngoại giao, luật
gia, nhà nghiên cứu lịch sử văn học, giải Nobel văn
học năm 1980