Wednesday, 19 February 2014

Những đứa con của thời đại (Wisława Szymborska)

Thái Linh dịch


Chúng ta là những đứa con của thời đại,
thời đại chính trị.

Mọi chuyện của anh, của chúng ta, của các bạn
chuyện ban ngày, chuyện ban đêm
Đều là chuyện chính trị.

Dù muốn dù không
các gen di truyền của anh vẫn mang quá khứ chính trị
da anh mang màu chính trị
đôi mắt anh mang cái nhìn chính trị

Mọi điều anh nói đều có tiếng vang,
Mọi sự lặng im của anh đều là thông điệp
Đằng nào cũng là chính trị hết.

Ngay cả khi thả bộ trong rừng
Anh cũng bước những bước đi chính trị
Trên nền đất chính trị.

Những câu thơ phi chính trị cũng là chính trị,
Vầng trăng sáng trên cao,
không còn là trăng nữa.
Tồn tại hay không tồn tại, đó là câu hỏi.
Câu hỏi gì, mến thương ơi, hãy trả lời đi.
Câu hỏi chính trị.

Thậm chí anh chẳng cần phải là người
Để có được tầm quan trọng chính trị.
Chỉ cần anh là dầu lửa
ngũ cốc hay nguyên liệu tái chế - là đủ.

Hoặc là cái bàn hội nghị, mà hình dạng
bị tranh cãi hàng tháng:
đàm phán về chuyện sinh tử
bên bàn tròn hay vuông.

Trong khi đó con người vẫn bỏ mạng,
súc vật chết,
nhà cửa vẫn cháy
đồng ruộng hoang tàn
như trong những thời đại mịt mùng xa lắc

không chính trị bằng.


Nguyên tác:Jesteśmy dziećmi epoki,
epoka jest polityczna.

Wszystkie twoje, nasze, wasze
dzienne sprawy, nocne sprawy
to są sprawy polityczne.

Chcesz czy nie chcesz,
twoje geny mają przyszłość polityczną,
skóra odcień polityczny,
oczy aspekt polityczny.

O czym mówisz, ma rezonans,
o czym milczysz, ma wzmowę
tak czy owak polityczną.

Nawet idąc borem lasem
stawiasz kroki polityczne
na podłożu politycznym.

Wiersze apolityczne też są polityczne,
a w górze świeci księżyc,
obiekt już nie księżycowy.
Być albo nie być, oto jest pytanie.
Jakie pytanie, odpowiedz kochanie.
Pytanie polityczne.

Nie musisz nawet być istotą ludzką,
by zyskać na znaczeniu politycznym.
Wystarczy, żebyś był ropą naftową,
paszą treściwą czy surowcem wtórnym.

Albo I stołem obrad, o którego kształt
spierano się miesiącami
przy jakim pertraktować o życiu i śmierci,
okrągłym czy kwadratowym.

Tymczasem ginęli ludzie,
zdychały zwierzęta,
płonęły domy
i dziczały pola
jak w epokach zamierzchłych
i mniej politycznych.


Tuesday, 18 February 2014

Tra tấn (Wisława Szymborska)

Thái Linh dịch
Chẳng có gì đổi thay.
Thân thể biết đau,
phải ăn, ngủ và hít thở,
nó có làn da mỏng, ngay dưới da là máu,
có móng và răng - một số lượng khá nhiều,
xương dễ gãy, các khớp co dãn.
Khi tra tấn, tất cả những điều này đều được xét đến.

Chẳng có gì đổi thay.
Thân thể run lên, như đã từng run
trước khi thành La Mã được lập nên, và sau đó,
vào thế kỷ hai mươi trước và sau Thiên Chúa,
những đòn tra tấn vẫn như xưa,
chỉ trái đất ngày càng nhỏ lại
và bất kỳ điều gì xảy ra cũng tựa như cách một bức tường.

Chẳng có gì đổi thay.
Chỉ có người ngày một nhiều hơn,
Bên cạnh những đòn cũ xuất hiện nhiều đòn mới,
đòn thật sự, tưởng tượng, không có, hay tạm thời,
nhưng tiếng kêu thét thân thể đáp lại chúng
đã, đang và sẽ là tiếng kêu vô tội,
theo cung bậc và âm giai xưa cũ đời đời.

Chẳng có gì đổi thay.
Có chăng chỉ là kiểu cách, lễ nghi, các điệu vũ.
Động tác đưa tay lên che đầu
thì vẫn nguyên như cũ.
Thân thể quằn quại, co giật, giãy ra,
bị chặt chân sụp xuống, khuỵu gối,
bầm tím, sưng vù, chảy máu và dãi nhớt.

Chẳng có gì đổi thay.
Ngoại trừ những bờ sông,
đường biên của rừng, bờ biển, sa mạc và sông băng.
Giữa những phong cảnh ấy, một linh hồn bé nhỏ dật dờ,
khi ẩn, khi hiện, khi gần lại, khi xa mờ,
xa lạ với bản thân, không cách gì nắm bắt,
lúc chắc chắn, lúc phân vân
về sự hiện hữu của chính mình,
trong khi thân thể vẫn có đó, có đó và có đó
mà chẳng chốn nương thân.



Nguyên tác:
Nic się nie zmieniło.
Ciało jest bolesne,
jeść musi i oddychać powietrzem i spać,
ma cienką skórę, a tuż pod nią krew,
ma spory zasób zębówi paznokci,
kości jego łamliwe, stawy rozciągliwe.
W torturach jest to wszystko brane pod uwagę.

Nic się nie zmieniło.
Ciało drży, jak drżało
przed założeniem Rzymu i po założeniu.
w dwudziestym wieku przed i po Chrystusie,
tortury są, jak były, zmalała tylko ziemia
i cokolwiek się dzieje, to tak jak za ścianą.

Nic się nie zmieniło.
Przybyło tylko ludzi,
obok starych przewinień zwawiły się nowe,
rzeczywiste, wmówione, chwilowe i żadne,
ale krzyk, jakim cialo za nie odpowiada,
był, jest i będzie krzykiem niewinności,
podług odwiecznej skali i rejestru.

Nic się nie zmieniło.
Chyba tylko maniery, ceremonie, tańce.
Ruch rąk osłaniających głowę
pozostal jednak ten sam.
Ciało się wije, szarpie i wyrywa,
ścięte z nóg pada, podkurcza kolana,
sinieje, puchnie, ślini się i broczy.

Nic się nie zmieniło.
Poza biegiem rzek,
linią lasów, wybrzeży, pustyń i lodowców.
Wśród tych pejzaży duszyczka się snuje,
znika,powraca, zbliża się, oddala,
sama dla siebie obca, nieuchwytna,
raz pewna, raz niepewna swojego istnienia,
podczas gdy ciało jest i jest i jest
i nie ma się gdzie podziać.

Kết thúc và khởi đầu (Wisława Szymborska)

Thái Linh dịch


Sau mỗi cuộc chiến tranh
Phải có người dọn dẹp.
Một trật tự khả dĩ
không tự nó sinh ra.

Phải có người xúc đống gạch nát
sang lề đường
cho những chiếc xe chất đầy xác
đi qua.

Phải có người lăn xả
vào bùn đất, tro tàn,
giữa lò xo của những chiếc ghế bành,
những mảnh kính vỡ
và những tấm giẻ đẫm máu.

Phải có người khuân đi
thanh gỗ chống tường,
phải có người lắp kính cửa sổ
và lắp cánh cửa vào bản lề.

Những điều ấy lên hình không đẹp
và mất nhiều năm.
Mọi ống kính đều đã lên đường
tới cuộc chiến tranh khác.

Phải bắc lại cầu
và làm nhà ga mới.
Những tay áo sờn rách
vì bao lần xắn lên.

Có người cầm búa
ôn chuyện đã qua.
Có người lắng nghe
gật gù bằng cái đầu chưa mất.
Nhưng quanh họ
bắt đầu có những kẻ cảm thấy
những thứ đó chán ngấy.

Dưới bụi cây
đôi khi vẫn có người đào lên
những lý lẽ đã gỉ sét
và mang chúng ra đống rác.

Những người biết
về những điều từng xảy ra nơi đây
phải nhường chỗ cho những người
biết ít.
Biết ít hơn.
Và rốt cuộc gần như không biết.

Trên thảm cỏ
nơi mọc lên nhân quả
phải có người nằm lăn ra
nhấm cọng rơm

và ngây ngắm mây bay.


Nguyên tác:
    Koniec i początek

    Po każdej wojnie

    ktoś musi posprzątać.
    Jaki taki porządek
    sam się przecież nie zrobi.
    Ktoś musi zepchnąć gruzy
    na pobocza dróg,
    żeby mogły przejechać
    wozy pełne trupów.
    Ktoś musi grzęznąć
    w szlamie i popiele,
    sprężynach kanap,
    drzazgach szkła
    i krwawych szmatach.
    Ktoś musi przywlec belkę
    do podparcia ściany,
    ktoś oszklić okno
    i osadzić drzwi na zawiasach.
    Fotogeniczne to nie jest
    i wymaga lat.
    Wszystkie kamery wyjechały już
    na inną wojnę.
    Mosty trzeba z powrotem
    i dworce na nowo.
    W strzępach będą rękawy
    od zakasywania.
    Ktoś z miotłą w rękach
    wspomina jeszcze jak było.
    Ktoś słucha
    przytakując nie urwaną głową
    Ale już w ich pobliżu
    zaczną kręcić się tacy,
    których to będzie nudzić.

    Ktoś czasem jeszcze
    Wykopie spod krzaka
    przeżarte rdzą argumenty
    i poprzenosi je na stos odpadków.

    Ci, co wiedzieli
    o co tutaj szło,
    muszą ustąpić miejsca tym,
    co wiedzą mało.
    I mniej niż mało.
    I wreszcie tyle co nic.

    W trawie, która porosła
    przyczyny i skutki,
    musi ktoś sobie leżeć
    z kłosem w zębach
    i gapić się na chmury.


  

Friday, 14 February 2014

Thơ rất cũ :)

Thức tỉnh buồn

Như mảnh thiên thạch đột nhiên rơi vào lồng ngực em, anh mãi để lại
Hương thơm và ánh sáng vũ trụ phảng phất quanh tim em,
Ưu phiền và bóng tối thời gian lẩn quất.

Huy hoàng hơn những vết xước rực cháy trong ngực vì cạnh đá nhọn sắc,
U minh hơn những hố thẳm của hơi thở trong đêm sâu quặn thắt,
Yêu-thương là một thức tỉnh buồn. 

*

Chỉ còn Ánh Sáng

Vậy là chỉ còn Ánh Sáng
Em
chỉ còn Ánh Sáng.

Những cơn đau sắc nhọn
mờ mờ dần mòn
Những đêm đen nhức nhối bóng tối
loãng loãng tan ra
Những vực sâu em đã đi qua
dâng dâng đầy lấp
Những hờn ghen cay đắng
nhạt nhạt phai nhòa...

Chỉ còn Ánh Sáng.

Những câu thơ không được viết ra
Những ngôn từ rỗng nghĩa
Gương mặt anh trở nên xa lạ quá
trong xôn xao nhẹ bỗng ngoài kia...

Màu thời gian màu của vĩnh ly
Chỉ còn Ánh Sáng.

*

Những lời bông đùa

Những lời bông đùa, anh thấy không, chúng ta trốn vào đó như trốn sau những tấm rèm vạn năng mờ ảo, mềm mại nhưng không cách gì xuyên thủng - lớp da trơn tuột, bóng nhẫy mà ta ra sức gắn lên đó những emoticon hình mặt cười tựa những chiếc vẩy tua tủa sắc cạnh, thứ vũ khí lợi hại bảo vệ chúng ta trước mọi tổn thương và tan vỡ trong thế giới đầy nghi hoặc, hoang mang.

Những lời bông đùa, anh biết không, sẽ trở thành tấm vải liệm của chúng ta. Ngay cả khi đã chết, mình cũng vẫn không thể chạm vào nhau, vĩnh viễn.

*

Chỉ còn Im Lặng

Ngay khi Yêu Thương như viên đá long lanh từ đáy đại dương trĩu lặn vào lồng ngực em khiến trái tim như muốn vỡ òa, chính là lúc em cảm thấy nó mong manh như hương thơm trong vắt của giọt sương vừa ứa ra trên đóa Huệ-tây trắng muốt.

Chỉ còn Im Lặng... 

Ngay khi Gần Gũi như tiếng thì thầm âu yếm từ đôi-môi-kẻ-đang-yêu khẽ chạm vào làn da khiến cơ thể em nhận ra anh rõ ràng hơn bao giờ hết, chính là lúc em cảm thấy nó hun hút nghìn trùng như ngọn gió lang thang thổi suốt sa mạc hoang vu mênh mông vẩy cát.

Chỉ còn Im Lặng...

Ngay khi Thực Tại như trái ô-liu đen óng từ một hòn đảo Hy Lạp nhẹ vỡ trong vòm miệng em khiến đầu lưỡi run lên trong vị mặn bùi, chính là lúc em cảm thấy nó lãng đãng tan ra như bóng tối của đêm Địa Trung Hải xa xưa nhạt nhòa sóng vỗ.

Chỉ còn Im Lặng...

(Thái Linh)