Phỏng vấn nhà xã hội học nổi tiếng, giáo sư Zygmunt Bauman do Jacek Żakowski - phóng viên tạp chí Polityka thực hiện tháng 12.2004. Trích từ tập “Hành trang cần thiết của người trí thức”. Thái Linh dịch.
Jacek
Żakowski: - Ông không thể tưởng tượng được
tôi đã vui mừng thế nào khi ông nói về „niềm đam mê
lột trần những dối trá bao che trách nhiệm về những
bất hạnh của con người...” trong cuộc trò chuyện với
Keith Tester. Nhưng Tester đã không khai triển mạch này. Và
tôi vẫn không biết những dối trá ấy là gì. Giờ ta
hãy thử vạch trần chúng một cách triệt để.
Zygmunt
Bauman: - Triệt để? Anh định triệt để vạch trần
và đưa đám sự dối trá?
Tôi
rất muốn ông ít nhất cũng hạ gục vài sự dối trá
lớn.
Thế
thì anh đã ở thế yếu rồi. Cuộc chiến với dối trá
là bất khả chiến thắng. Dối trá tự bản chất là
vĩnh cửu và có ở khắp nơi. Georges Duhamel đã rất thông
thái khi nói rằng: „Giả dối là nguyên tắc, sự thật
là ngoại lệ”.
Ông
cũng cho rằng như vậy?
Điều
này có thể dễ dàng chứng minh một cách lô gích. Cho mỗi
câu hỏi chỉ có một câu trả lời đúng. Thế nhưng các
câu trả lời dối trá thì có cả đống.
Vậy
vì sao „niềm đam mê lột trần dối trá” lại dẫn lối
cho một trong những nhà xã hội học đương đại vĩ đại
nhất?
Hẳn
là anh muốn nói đến những dối trá chính trị?
Nếu
như chúng thường bao che „bất hạnh của con người”
nhất.
Điều
này không mấy thú vị. Dối trá chính trị sớm muộn gì
cũng trở nên rõ ràng đối với tất cả mọi người.
Chẳng ai ngạc nhiên khi nghe thấy rằng Blair nói dối về
vũ khí khủng khiếp của Hunsein, hoặc rằng Đức đã nói
dối về cuộc tấn công của Ba Lan vào đài phát thanh ở
Gliwice. Ở đây chẳng cần đến triết học lẫn xã hội
học. Những thứ ấy chỉ làm tôi mất thời gian. Tôi
quan tâm đến những lò xo ẩn quyết định số phận của
những con người bình thường – như anh và tôi.
Ông
tin là có „những lò xo ẩn của số phận”?
Có
những quá trình vĩ đại mà chúng ta tiếp nhận như những
đòn đánh hay bản án của số phận, mặc dù về bản
chất chúng là hậu quả hành động có ý thức ít hay
nhiều của ai đó. Có những sự kiện có vẻ như bất
ngờ hay bất khả kháng, nhưng lại xuât phát từ chuỗi
quyết định của con người, từ hệ thống các mối liên
kết mà chúng ta có thể có ảnh hưởng nếu biết tự ý
thức.
Những
âm mưu lớn nào đó?
Những
tham vọng thầm kín thì đúng hơn, chúng vẫn luôn hiên
hữu nhưng ngày nay chúng đặc biệt phức tạp và khó
tránh khỏi bởi có tồn tại sự phụ thuộc lẫn nhau
hiển nhiên của các vận mệnh toàn cầu. Chuyện một tia
sét từ trời quang đánh trúng đầu người công nhân đang
làm việc trong nhà máy ở Leeds hay ở Warszawa có thể là
hậu quả của điều gì đó xảy ra ở Singapore hay New
York. Người công nhân chẳng biết gì về điều ấy và
cũng chẳng có chút ảnh hưởng nào đối với nó. Hơn
nữa – thậm chí Gordon Brown (bộ trưởng tài chính Anh),
tổng thống Pháp, thủ tướng Đức hay thủ tướng Ba Lan
cũng chẳng có ảnh hưởng gì.
Điều
này chưa có gì chung lắm với sự dối trá.
Nhưng
sự phụ thuộc lẫn nhau toàn cầu khiến nguyên nhân của
vị thế chúng ta thoát khỏi các quan sát của con người.
Điều này mở ra một không gian chưa từng thấy trong lịch
sử cho những sự dối trá và thao túng vĩ đại. Trước
kia không có ngần ấy chỗ cho dối trá, bởi vì các mối
nguy hiểm và cách bảo vệ trước chúng được hình thành
trong mối liên hệ hiển nhiên. Nếu có bệnh dịch thì
cần phải đóng cửa không cho người lạ vào. Nếu có lũ
lụt thì phải leo lên ngọn đồi khô ráo. Ngày nay chúng
ta không hiểu được mối liên hệ giữa các hiểm nguy và
hành động của chúng ta. Ta được biết về chúng từ
những người thông thái viết trên báo chí. Ô nhiễm
không khí, hành tinh nóng lên, lỗ thủng tầng ô zôn,
nguồn gốc của tình hình kinh tế, nguyên nhân khủng bố,
lý do thất nghiệp – đó không phải là những hiện
tượng có thể nắm bắt được bằng các giác quan tự
nhiên. Các chuyên gia nói cho chúng ta nghe về chúng. Nếu
các chuyên gia không nói, chúng ta không biết mình đang
đứng trước nguy hiểm. Hơn thế nữa – vì chúng ta phải
dựa vào ý kiến của các chuyên gia để đánh giá tình
hình và một người bình thường không có cách gì kiểm
soát họ, người ta có thể nói dối chúng ta thoải mái.
Các chuyên gia có thể nói với chúng ta rằng khí nhà kính
không có hại, rằng thuyết đơn phương tốt hơn việc
xây dựng cộng đồng quốc tế, rằng đó là con đường
đúng đắn duy nhất đưa đến phát triển, rằng sô cô
la hay rượu kéo dài tuổi thọ hoặc ngược lại.
Và
theo ông là không có cách gì xác minh điều đó.
Không
có! Thực tế ai cũng có thể ngang nhiên nói dối chúng
ta. Trước kia ai cũng rõ là các chính trị gia nói dối,
bởi thế người ta tìm sự thật ở các chuyên gia, những
người có thẩm quyền, các trí thức, những nhà thông
thái. Ngày nay các chuyên gia, trí thức, những nhà thông
thái nói dối cũng ngang nhiên và nhẹ nhàng như các chính
trị gia mỗi lúc một nhiều hơn. Bởi vậy khi chúng ta
nghe thấy theo các nghiên cứu gần nhất một thứ men nào
đấy có trong thức ăn kéo dài hoặc rút ngắn tuổi thọ,
thì mọi người lập tức hỏi ngay: „Ai tài trợ cho
nghiên cứu này?”. Ngày càng phổ biến ý kiến cho rằng
nếu nghiên cứu được tập đoàn sản xuất thuốc lá
đặt hàng thì kết quả sẽ là thuốc lá tốt cho sức
khỏe. Chắc hẳn chẳng còn luận điểm nào vô lý đến
mức không thể đánh đổ nó bằng kết quả các nghiên
cứu tiến hành trong các trung tâm được công nhận.
Nhưng
có thể đánh đổ nó bằng các nghiên cứu khác.
Chính
thế! Có thể đánh đổ hoặc chứng minh luận điểm đúng
đắn nhất hay ngu ngốc nhất dễ dàng như nhau! Và chúng
ta được gì? Khi tra từ khóa „sự dối trá” ở Google
tiếng Ba Lan, tôi tìm thấy trong vòng hai phần mười giây
hơn 10400 tài liệu. Con người có thể làm gì với điều
này? Còn với từ khóa „sự an toàn” gần đây tôi nhận
được địa chỉ tới 17 triệu tài liệu. Tôi có nhờ
vậy mà thông thái hơn không? Paul Virilio viết về „quả
bom thông tin” mà theo ông còn nguy hiểm đối với sự
tồn tại của loài người hơn cả bom nguyên tử, bởi nó
ngăn cản việc hiểu được những gì đang xảy ra.
Và
việc đưa ra những quyết định hợp lý.
Việc
phán đoán đã trở nên bất khả rồi, nói gì đến quyết
định hợp lý!
Do
đó ngày nay sự dối trá căn bản đầu tiên là luận
điểm rằng chúng ta có thể phân biệt dối trá và sự
thật?
Chúng
ta không biết phân biệt và ngày càng không biết. Đó là
siêu dối trá của tư duy duy lý đương đại, vô sở bất
tại và đang ngày một hùng mạnh. Chúng ta biết phân biệt
dối trá và sự thật ư?
Nhưng
đó chưa phải là một trong những điều dối trá vĩ đại
đương thời „bao che trách nhiệm về bất hạnh của con
người.”
Đó
là điều dối trá mở ra khả năng gói ghém giả dối
tránh nhiệm vào bất cứ cái hộp nào.
Ví
dụ?
Ví
dụ sự an toàn.
Nghĩa
là?
Ở
đây có lẽ tôi đã tháo dỡ ra được điều gì đó,
nhưng tôi đề nghị kiên nhẫn một chút. Anh có nhớ lý
thuyết của Bahtin nói rằng bản chất của quyền lực là
dựa trên nỗi sợ không? Trước hết là nỗi sợ vũ trụ
mà hầu như mỗi người đều cảm thấy từ thủa lọt
lòng. Mỗi khi nghĩ đến vũ trụ, nhìn những cơn sóng
lớn, những vực sâu, những ngọn núi ngất trời, chúng
ta cảm thấy sự nhỏ bé, mong manh, bất lực của mình.
Đó là nỗi sợ tự nhiên mà từ đó tôn giáo, văn hóa,
triết học lấy được sức mạnh. Nỗi sợ thứ hai là
nỗi sợ chính quyền. Sức mạnh của quyền lực chính
trị dựa vào đó. Nỗi sợ chính quyền có thể được
tạo ra. Để đạt đến sức mạnh của nỗi sợ vũ trụ,
quyền lực chính trị phải được cắt đo theo cỡ quyền
lực của Thượng đế. Nó phải có quyền năng rộng
khắp, vô sở bất tại và bất khả thấu. Đó phải là
quyền lực tầm cỡ của cả Kinh Thánh và Sách Job gộp
lại. Bởi Job rốt cuộc đã cảm nhận được, điều đó
có nghĩa là Thượng đế không chỉ tạo ra, mà còn thay
đổi luật lệ theo ý mình, vì vậy không có sự tuân
phục luật lệ Thượng đế nào bảo đảm an toàn cho
chúng ta trên trần thế. Leszek Kołakowski đã đào sâu vấn
đề này thật tuyệt vời. Và trước đó Carl Schmidt đã
viết: „quyền lực thực sự tự chủ phụ thuộc vào
sức mạnh thực hiện các ngoại lệ”. Sư phụ trong lãnh
vực này là Stalin, người đã khủng bố được toàn thể
xã hội, tới mức thậm chí những người phục tùng nhất
cũng không chắc chắn được về ngày mai, bởi vậy họ
biết ơn hắn chỉ bởi hắn không tống họ vào nhóm
những kẻ nổi loạn. „Stalin yêu dấu chăm lo cho người
lương thiện – Người đã không đày tôi đi Siberia”.
Nhưng
cái đó liên quan như thế nào đến thế giới ngày nay?
Vâng,
mỗi chính quyền, bao gồm cả chính quyền ngày nay, để
thực hiện vai trò của mình, cần tính chính danh gieo rắc
trên nỗi sợ. Đó không thể là nỗi sợ vũ trụ như
trong thời ai Cập cổ đại – bởi chính quyền của
chúng ta là thế tục. Nhất thiết cần có nỗi sợ chính
quyền. Chính quyền đứng trước công dân phải có thể
nói với anh ta: „Chính chúng tôi bảo vệ anh trước các
hiểm nguy đang rình rập. Chỉ có việc tuân phục các
luật lệ do chính quyền đặt ra cho cộng đồng chúng ta
mới khiến anh được an toàn!” Nhưng chính quyền ấy
ngày nay phải bảo vệ chúng ta trước điều gì? Trước
kia các hiểm nguy của thế giới rất hiện thực. Các
hiểm nguy là thiên tai, súc vật, kẻ lạ. Chính quyền
phải bảo vệ nhân dân trước những điều này. Sau đó
là các chu trình kinh thế, khủng hoảng, thất nghiệp. Từ
thời Bismarck nhà nước nhận phần bảo vệ trước những
hiểm nguy khác nữa, sau thế chiến II nó mang hình thức
nhà nước xã hội đảm bảo cho mọi người điều kiện
sống tối thiểu và bảo hiểm cho cá nhân trong các trường
hợp bất hạnh – ốm đau, thất nghiệp, tàn tật, nghèo
đói và tuổi già. Các nhà nước của thế kỷ hai mươi
theo một nghĩa chính trị nào đó là các hợp đồng bảo
hiểm. Mô hình này đang kết thúc. Nhà nước đương đại
đã không còn biết bảo hiểm cho các công dân của mình
trước các bất hạnh cá nhân. Không có cả nguồn lực
lẫn ý muốn làm điều đó. Nó đẩy trách nhiệm này cho
các lực thị trường và sự khôn ngoan của cá nhân. Ai
không xoay xở được sẽ trở thành „người bỏ đi”.
Thế giới đương đại là thế giới của „bản kiểm
kê thiếu”. Thứ gì không sử dụng được hoặc đã bị
chán sẽ bị vứt bỏ. Trước tiên những thứ bị vất
vào sọt rác mỗi lúc một nhiều hơn. Giờ đây cả con
người, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các châu
lục cũng bị vứt vào sọt rác. Châu Phi trở thành „rác
thải của toàn cầu hóa”. Khi ngọn gió chính trị hay
kinh tế thay đổi, gần như mỗi người chúng ta đều có
thể ngày một ngày hai trở thành rác. Và càng lúc càng
khó tin được việc ai đó bảo vệ chúng ta trước điều
đó. Nhất là nhà nước. Rủi ro cuộc sống đã bị tư
nhân hóa và cá thể hóa.
Nhưng
sự dối trá nằm ở đâu?
Tôi
đang tiến đến nó, nhưng ở đây bắt đầu có các bậc
thang. Bởi chính quyền, để có tính chính danh, để biện
minh cho đòi hỏi phục tùng, phải là lá chắn duy nhất
trước các nguy hiểm đe dọa công dân và là người dẫn
đường đến thế giới an toàn. Chính quyền đương đại,
vẫn mang tính địa phương như thời xưa, nhưng hoạt động
trong thế giới toàn cầu hóa, đã không thể và không
muốn bảo vệ chúng ta trước những đỏng đảnh của
thị trường, trước số phận bất hạnh, trước rủi ro
bệnh tật. Có sự cám dỗ - và do đó tồn tại khả năng
- chuyển chức năng bảo vệ trước nỗi sợ mà nhân danh
nó chính quyền đòi hỏi chúng ta phục tùng từ phạm vi
này sang phạm vi khác.
Sang
phạm vi nào?
Ở
đây tôi có chút khó khăn về ngôn ngữ. Để chỉ việc
không có các nguy cơ trong tiếng Ba Lan chỉ có một từ -
an toàn. Tiếng Anh có hai từ: security và safety. Security
liên quan đến các mối liên hệ xã hội – thứ ở Ba
Lan gọi là an toàn xã hội – như thu nhập ổn định,
thoát nghèo, có nhà ở, hy vọng vào tuổi già yên ổn.
Còn safety liên quan chủ yếu đến sự bảo toàn cơ thể
– sự chắc chắn là tôi không bị ai đầu độc bằng
thức ăn hay nước uống, không bị ai trộm hay cướp,
không bị ai bắn, không bị ai bắt cóc mất con, không bị
đặt bom... Chính quyền đương đại ngày càng hướng sự
chú ý của nhân dân theo hướng này nhiều hơn. Không thể
hứa hẹn cho nhân dân security và một xã hội nơi họ có
thể cảm thấy secure, chính quyền càng ngày càng nói
nhiều hơn về các hiểm họa safety. Họ muốn lấy được
lòng biết ơn của chúng ta, khi không có bom nổ, khi ta
không bị bọn côn đồ đánh, hay khi ăn mày bị quét sạch
khỏi đường phố. Báo động vàng. Báo động da cam. Báo
động đỏ. Phù, thành công rồi, cuộc tấn công đã bị
vô hiệu hóa! Càng ít security, càng nhiều hưng phấn và
ồn ào quanh safety. Có thể bằng cách này làm nhân dân
nhầm lẫn, mất cảnh giác, hướng sự chú ý của chúng
ta khỏi những bê bối và bất lực của chính quyền.
Điều
này có thể được khẳng định trong các so sánh quốc
tế. Cuộc chiến với khủng bố nóng bỏng nhất ở những
nơi nhà nước ít quan tâm nhất đến phạm vi security hoặc
từ bỏ chúng một cách đột ngột nhất – Mỹ, Anh, Ba
Lan. Những nước không có gì đặc biệt xảy ra với
security thì cuộc chiến này có vẻ nhẹ nhàng hơn.
Nhưng
điều này không chỉ liên quan đến cuộc chiến với
khủng bố. Trong các phạm vi khác của safety mức độ
căng thẳng cũng phân bố tương tự. Càng ít security, thì
cuộc chiến với khói thuốc lá, với việc vượt tốc độ
trên đường bộ, với bạo hành gia đình và các thể
loại côn đồ... càng ồn ào. Ở Mỹ ám ảnh chống thuốc
lá bắt đầu cùng với chủ nghĩa tân tự do và lớn lên
cùng nó. Ở Đức chính quyền bắt đầu nói về việc
lái xe vượt tốc độ trên đường cao tốc khi nhà nước
xã hội bắt đầu bị cắt giảm. Chắc không phải ngẫu
nhiên mà ở châu Âu luật cấm hoàn toàn việc hút thuốc
lá trong nhà do chính Ireland đưa ra,nước có chỉ số cạnh
tranh cao nhất – nghĩa là, nói cách khác, ít safety nhất,
các rủi ro cuộc sống rõ ràng nhất và nhà nước ít
mang tính phúc lợi nhất.
Ông
có cảm giác là bằng cách đó, chính quyền đánh lạc
hướng sự chú ý của người dân khỏi những cuộc cải
cách đau đớn?
Tôi
không biết chứng minh điều này. Nhưng tôi nhìn thấy sự
đồng thời rất rõ ràng. Và tôi cũng thấy những người
bị tước mất security dễ dàng đồng ý với các hạn
chế được biện minh bằng nhu cầu bảo vệ safety cho họ
hơn. Tôi đã quan sát phản ứng của hàng nghìn người
lang thang ở sân bay London khi các chuyến bay đi Mỹ bị
hoãn vì có báo động khủng bố. Không có ai chửi bới,
mọi người ngoan ngoãn chờ đợi. Họ nói về cái chính
quyền đã hoãn các chuyến bay với sự ngưỡng mộ và
lòng biết ơn. Người ta mất kỳ nghỉ hay công chuyện ở
Mỹ cũng chẳng sao. Mọi người đều hạnh phúc vì chính
quyền đã lo lắng cho họ. „Nếu chúng ta ngồi cùng máy
bay với bọn khủng bố thì sẽ ra sao? Nghĩ đến cũng đã
thấy sợ rồi!”. Thực kiện là chẳng có tên khủng bố
nào bị bắt và không có dấu vết đáng tin nào được
đưa ra về việc ai đó có thể bị nguy hiểm không khiến
cho lòng biết ơn của công dân giảm xuống.
Nhưng
sự dối trá ở đâu?
Tôi
không biết có sự dối trá không. Nhưng tôi biết là có
một không gian mới cho dối trá và lừa mị (manipulation)
dân chúng. Tôi không biết bọn khủng bố có thực sự có
kế hoạch gì không. Nhưng tôi biết rằng nếu chính quyền
tự nghĩ ra báo động đó, như Stalin luôn liên tiếp nghĩ
ra những âm mưu gây tranh cãi, thì chính quyền sẽ có
được lòng biết ơn của mọi người mà gần như không
tốn chút hơi sức nào. Không thể kiểm tra được điều
này trên thực tế. Rủi ro ở đây khác với các hiểm
nguy khác, bởi nó không nhìn thấy được, khó đo đếm
và không được xác minh.
Có
thể dễ dàng khẳng định có vụ nổ nào không hay những
người về hưu có được tăng lương hưu hay không. Nhưng
rất khó đánh giá có rủi ro thực tế về việc bom nổ
hay không. Chắc luôn có rủi ro nào đó.
Xét
từ số báo động giả và từ nhưng dối trá chính trị
bị đưa ra ánh sáng, có thể giả định là ở đây chúng
ta có vấn đề.
Nhưng
có lẽ ông cũng tin là có khủng bố chứ?
Tôi
tin là có và tôi tin chính quyền chiến đấu với khủng
bố, nhưng tôi cảm thấy họ lạm dụng - có thể là một
cách có ý thức – nỗi sợ mà khủng bố gây ra để xóa
đi các khía cạnh ít vẻ vang hơn trong hoạt động của
họ. Những cái xe tăng bao vây sân bay London có phải là
để chiến đấu với khủng bố? Hay nhiều hơn là để
tăng cảm giác bị đe dọa và cảm giác biết ơn của
công dân đối với chính quyền đang bảo vệ họ và nhờ
nó mà họ giữ được mạng sống? Anh có tưởng tượng
được việc dùng xe tăng để tìm một phụ nữ mang chất
nổ trong người và sẽ làm nổ máy bay không? Trong cuộc
chiến với không tặc xe tăng ít hiệu quả, nhưng chúng
gây ấn tượng mạnh với những người đang sợ hãi. „Họ
lo lắng cho chúng ta, chăm sóc chúng ta, bảo vệ chúng ta,
chúng ta mang ơn họ về mạng sống”.
Ông
cho rằng chính phủ và các cơ quan an ninh ở Mỹ, Anh, Ba
Lan hay Ý đã có những âm mưu để biến chúng ta thành
bầy người sợ hãi, mất phương hướng, dễ bị lừa mị
và mất tự chủ?
Tôi
nói về sự bất khả thấu nguyên nhân của các mối đe
dọa safety, về sự khó khăn ngày càng lớn trong việc
điều tra sự thật, về phạm vi ngày một rộng hơn của
việc sử dụng sự dối trá. Trong gương mặt khủng hoảng
tính chính danh của chính quyền xuất phát từ những quá
trình toàn cầu hóa, phải chăng nhà nước có khuynh hướng
tạo ra cảm giác bị đe dọa trong phạm vi nó cảm thấy
hơi chắc chắn hơn và có thể cho thấy nó làm được
nhiều hơn?
Nếu
nó có (khuynh hướng ấy) thì sao?
Đây
là câu hỏi căn bản cho nhà xã hội học. Thế giới thay
đổi ra sao khi mọi người không còn hy vọng vào security
và chỉ chú ý tới safety? Họ sẽ sống ra sao, nếu sự
chú ý của họ chỉ tập trung vào việc mua sắm lên đời
các hệ thống báo động, cửa sắt, khóa, áo chống đạn,
mặt nạ khí và có trời mới biết được gì nữa...
Hiển nhiên là dẫu có cả đám hỗn độn ấy thì nguồn
gốc của những bất an và căng thẳng vẫn còn nguyên
không được động chạm đến. Ngược lại, một cơ chế
tự thúc mình được khởi động – càng nhiều sợ hãi,
mớ hỗn độn quanh các hệ thống báo động, cửa, khóa
càng lớn. Mớ hỗn độn càng lớn, nỗi sợ hãi càng
mạnh. Nỗi sợ không được xoa dịu sẽ tìm nguồn và sẽ
cần đến mỗi lúc một nhiều hơn các đối tượng khác
nơi nó có thể giải tỏa. Ở đây hiệu quả phụ nguy
hiểm sẽ là những căng thẳng giữa các sắc dân hay giữa
các nền văn hóa. Trong xã hội đa sắc tộc của phương
Tây ngày nay điều này có nghĩa là sự xói mòn lòng tin
và thống nhất xã hội. Ở đây đã không còn là chuyện
đùa nữa. Chúng ta đi đến tâm điểm của bản sắc xã
hội, của nền dân chủ và cấu trúc chính trị chính là
dựa vào lòng tin và sự thống nhất xã hội. Và kết quả
cuối cùng là người ta làm quá ít để chuẩn bị cho
chúng ta bước vào cuộc sống trên hành tinh toàn cầu hóa
và chung sống an toàn.
Đây
là điều ông nghĩ đến khi nói về việc „lột trần
những dối trá bao che trách nhiệm về bất hạnh của con
người”?
Đây
chỉ là một trong số các ví dụ.
Thế
các ví dụ khác?
Anh
hãy lấy ví dụ cách tính tổng sản phẩm nội địa, tức
là GDP. GDP luôn luôn tăng, nhưng sao người ta có vẻ không
cảm thấy cuộc sống tốt hơn nhiều? Vì sao?
Vì
sự tăng trưởng nhắm vào vài phần trăm những người
tự cường nhất vốn vẫn là những người giàu nhất?
Đó
là một nguyên nhân. Nhưng bản thân tăng trưởng GDP thực
chất là một siêu dối trá toàn cầu, nếu người ta xem
nó là thước đo cho sự phồn vinh của con người. Bởi
vì GDP ghi nhận lượng tiền qua tay trong phạm vi một nền
kinh tế nào đó. Nhưng nó không xem xét tới một khu vực
rộng lớn của kinh tế đạo đức, kinh tế gia đình,
láng giềng, môi trường. Khi ngồi một mình trong nhà ăn
hay quán bar và nuốt đồ ăn nhanh, thì tôi chẳng thấy dễ
chịu gì cho lắm, nhưng tôi thực hiện một nghĩa vụ xã
hội nào đó, bởi hóa đơn tôi sẽ trả được tính vào
thành phần của GDP và làm cho chỉ số tăng trưởng kinh
tế lớn hơn. Nhưng khi vợ tôi nấu cho tôi bữa trưa và
chúng tôi ăn cùng con cái, thì điều đó có thể sẽ dễ
chịu, lành mạnh hơn đối với chúng tôi, nhưng chúng tôi
sẽ cư xử phi xã hội và phi kinh tế, vì GDP không ghi
nhận điều đó. Khi gia đình tan rã và cả nhà đều chui
ra quán hay các bar ăn nhanh, chắc hẳn hạnh phúc và cả
nhân tính của chúng tôi cũng bớt đi, nhưng GDP lại tăng.
Khi ông hàng xóm giúp tôi cắt cỏ, còn tôi giúp ông ấy
sửa giàn hoa, cả hai chúng tôi đều được hưởng lợi
gấp đôi – vì công việc được hoàn tất và nhân thể,
chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn trong khu vực của mình.
Nhưng GDP sẽ thiệt hại vì điều này, vì mỗi người
chúng tôi đều có thể thuê thợ và hóa đơn sẽ được
thống kê, đánh thuế. Tương tự, khi tuổi cao sức yếu,
tôi sẽ dễ chịu nếu được con gái chăm sóc, hơn là
phải đến cái trại nào đó chờ chết. Nhưng sự chăm
sóc lấy tiền được GDP ưu ái hơn, còn sự chăm sóc từ
trái tim theo góc nhìn thống kê kinh tế là công việc vô
giá trị.
Đồng
ý, có thể dễ dàng tưởng tượng mô hình phát triển
kinh tế dựa trên phát triển dịch vụ, nơi người ta làm
việc và thu nhập mỗi lúc một nhiều hơn khi cung cấp
dịch vụ lẫn nhau, nhưng đồng thời tất cả mọi người
đều tốn tiền và mất chất lượng sống, bởi một mặt
họ chi tiêu mỗi lúc một nhiều hơn, nhưng mặt khác lại
bị mất đi những niềm vui giản dị, những mối liên hệ
tình cảm tích cực với người khác thay cho những liên
hệ kinh tế lạnh lùng. Nhưng đó có phải là dối trá
không?
Đó
là sự dối trá nguy hiểm. Thực chất người ta đo cái
điều biểu hiện sự xói mòn xã hội và tan rã gia đình,
nhưng chúng ta trưng ra như là thành công kinh tế hay thành
công về văn minh! Điều có thật và đau đớn, được
cảm nhận rộng rãi là mất mát, lại được kinh tế thị
trường trình bày như lợi ích. Người ta gói ghém nỗi
bất hạnh của sự tan rã các mối liên kết giữa người
với người hay những phiền phức thông thường trong sự
dối trá dựa trên trao đổi thương mại của tăng trưởng
kinh tế. Ai cũng muốn làm việc cách nhà 500m, đi bộ đi
làm, về nhà ăn trưa, sau giờ làm chăm vườn cùng lũ trẻ
và cùng nấu bữa tối. Nhưng từ góc nhìn GDP thì sẽ tốt
hơn nếu anh làm việc cách nhà 50 km. Khi đó anh tốn khối
tiền và thời gian để đi làm. Tất nhiên anh sẽ ăn
quán. Anh đặt pizza cho bữa tối, trẻ con do cô giúp việc
trông, vườn thuê thợ làm vườn. Thêm vào đó, anh sẵn
lòng làm thêm ngoài giờ hay một công việc thứ hai, vì
lúc nào anh cũng thiếu tiền cho mọi thứ. Có thể trên
danh nghĩa anh giàu hơn rất nhiều, nhưng thực tế lại
nghèo và bất hạnh hơn. Chính phủ khoác lác bằng tăng
trưởng GDP, nhưng không nói tăng trưởng GDP làm tăng chất
lượng cuộc sống ở mức độ nào, và hủy hoại chất
lượng cuộc sống ở mức độ nào. Khi mọi nhu cầu và
khao khát của chúng ta - từ ăn uống đến tình dục - đều
được thị trường thỏa mãn và khi toàn bộ cuộc sống
chúng ta được quy về việc thu chi tiền, chúng ta trở
thành những sinh vật bất hạnh nhất, cô đơn nhất và
vô nghĩa lý nhất trên trái đất. Tất nhiên chúng ta có
thể thương mại hóa toàn bộ phạm vi cuộc sống vốn
dựa vào các mối quan hệ đạo đức, vào cộng đồng,
sự tự lập, nhưng cuộc sống khi đó trông sẽ ra sao?
Ông
tự nghĩ ra điều đó, hay ông đọc ở đâu?
Khó
có thể đọc được điều này ở đâu. Ban đầu tôi cảm
thấy nó. Sau đó tôi đã tìm tòi rất lâu. Phê phán
truyền thống đối với chủ nghĩa tư bản tua-bin
(turbocapitalism) dựa vào việc vạch trần sự leo thang
những thèm khát bị thúc đẩy bởi các chiêu tiếp thị
ngày càng tinh vi và các quảng cáo ngày càng quyền lực.
Sự dối trá này đã được biết đến từ lâu. Kinh tế
đương đại ngày càng dựa nhiều hơn vào việc nghĩ ra
một sản phẩm mới (hoặc bề ngoài là mới), sau đó nhờ
vào tuyên truyền mạnh mẽ để đánh thức những ham muốn
mới, nhồi vào đầu mọi người ý nghĩ là thiếu những
sản phẩm ấy họ sẽ không hạnh phúc. Truyền thông sống
bằng quảng cáo không thể không tham gia vào siêu dối trá
của nền văn minh tiêu dùng. Sự dối trá này từ vài
chục năm nay đã đẩy chúng ta vào nỗi bất hạnh mỗi
lúc một lớn hơn của những ham muốn không được thỏa
mãn, được khơi dậy một cách giả tạo. Nhưng sự dối
trá tồi tệ nhất của nền kinh tế dựa trên quảng cáo
là việc toàn bộ viễn cảnh về cuộc sống và ý nghĩa
tồn tại trong sự tuyên truyền này bị giới hạn vào
thứ dầu gội đầu mới, thứ bột làm thạch hay cái xe
mới.
Sự
dối trá này không chỉ „bao che sự bất hạnh”, mà đơn
giản là tạo ra nó.
Nó
tạo ra đồng thời bao che. Nguồn cơn của bất hạnh là
sự leo thang ham muốn vượt quá khả năng thỏa mãn chúng.
Nền kinh tế dựa vào tiêu dùng sẽ sụp đổ theo cách
khác. Vỏ bọc do quảng cáo tạo ra nằm ở ảo giác rằng
có thể thỏa mãn ham muốn. Song sự thật là trong xã hội
tiêu dùng cơ hội để thỏa mãn chúng rất thấp. Người
ta đổ nhiều tiền bạc và công sức nhất vào việc đánh
thức ham muốn, chứ không phải vào việc thỏa mãn chúng.
Để thỏa mãn những ham muốn bịa đặt bị khơi dậy
một cách giả tạo chúng ta làm việc cật lực, hành hạ
người thân, hủy hoại những phạm vi sống phi thị
trường (không có ý nghĩa kinh tế) của chúng ta. Cuộc
đuổi bắt này không bao giờ chấm dứt. Không có vạch
đích trên đường đua tiêu dùng. Khi anh làm việc cật
lực và rốt cuộc bỏ ra được đủ tiền mua nhà hay xe
hơi, những thứ sẽ phải mang lại hạnh phúc cho gia đình
anh, ngay sau đó anh sẽ nhận được quảng cáo xe hơi từ
chính hãng ấy, cái xe sẽ mang lại nhiều hạnh phúc hơn
nữa, hoặc quảng cáo nhà nơi sẽ có nhiều tình yêu và
hơi ấm gia đình hơn. „Hãy mua đi, rồi bạn sẽ hạnh
phúc”. Những sự dối trá vĩ đại của xã hội tiêu
dùng nằm ở chỗ những lời hứa mang đến kết quả
mong muốn phải bị vi phạm hàng ngày. Trong hệ thống
tiêu dùng chúng ta như Syzyf hay đúng hơn như con lừa đuổi
theo củ cà rốt ở đầu gậy, hoặc như con chuột trong
vòng quay. Anh vừa mới mua xong một thứ đồ phải mang
lại hạnh phúc cho anh và gia đình thì đã được biết
không phải là nó, rằng nguồn gốc của hạnh phúc là
thứ gì đó khác kia. Trong bóng đổ của những niềm hi
vọng tót vời che lấp mọi thứ, mỗi lúc một mới hơn,
đống đồ vừa mới bóc tem mà ta sẽ bỏ đi lớn dần
lên, bởi thực sự chúng chẳng cho ta hạnh phúc hoặc
không so sánh được với những sản phẩm tiềm năng khác
chưa được dùng thử.
Vậy
con người nên học được khá nhanh rằng đồ vật không
mang lại hạnh phúc.
Cái
khó ở đây là lý trí của chúng ta – sau khi bị đặt
dưới sự tẩy não vĩ đại và có hệ thống bằng quảng
cáo – từ lâu đã không còn lành mạnh nữa. Theo nguyên
tắc của Goebbels sự dối trá của chủ nghĩa tiêu dùng,
được lặp lại hàng triệu hay hàng tỉ lần, đã trở
thành sự thật được công nhận rộng rãi. Tiêu dùng hậu
hiện đại là thói quen xấu tuyệt đối gây nghiện. Nó
lây nhiễm y như nghiện ma túy hay nghiện tình dục. Nhìn
thấy một quảng cáo mới, người ta rơi vào trạng thái
hưng phấn không lành mạnh mà người ta không biết làm
chủ. Người ta cảm thấy bất ngờ hưng phấn khi kịp sở
hữu thứ gì đó. Nhưng ngay sau khi mua người ta trải
nghiệm sự thất vọng và sự tuột hứng đau đớn chỉ
có thể bị đẩy lùi bằng cách thỏa mãn những liều
ham muốn tiếp theo. Cũng như đa số thói quen xấu, liều
cần thiết để chiến thắng nỗi thất vọng không ngừng
tăng lên. Vậy là chúng ta ngày càng rơi vào bất hạnh và
sự cầm tù của ham muốn được gói ghém trong hình dung
sai lầm về hạnh phúc. Sự dối trá này thống trị những
ước mơ của con người và qua giấc mơ con người áp đảo
thế giới.
Nhưng
bằng cách nào, thưa giáo sư, sự dối trá bắt đầu
thống trị, còn sự thật thì người ta lại không nghe?
Ở
đây tôi sẽ viện đến Aristotles, người đã viết rằng
việc điều tra sự thật diễn ra ở chợ (agora), nghĩa là
ở phạm vi công cộng. Ở đó mối liên hệ giữa cái mà
ông gọi là oikos (nghĩa là việc riêng) và ecclesia (việc
chung) được thiết lập. Ở chợ, từ hàng thế kỷ, các
nhu cầu cá nhân bị chuyển thành các lợi ích xã hội,
còn các quyền lợi tập thể bị chuyển thành ngôn ngữ
của các quyền và nghĩa vụ cá nhân. Bằng cách đó, sự
thật được điều tra một cách diễn ngôn, người ta xác
định điều xã hội chấp nhận là sự miêu tả đúng
thực tại. Bây giờ không còn cái chợ như thế nữa.
Trong cái chợ ngày nay người ta chủ yếu kể về những
trải nghiệm cá nhân của mình. „Tôi đã làm được
điều đó”. „Họ đã không làm được điều đó.”
„Cái này dễ thương.” „Cái ấy đáng tiếc”. Diễn
ngôn khép lại trong tầm chân trời cá nhân. Nó xoay quanh
những gì con người có thể tự nhìn thấy hay trải
nghiệm. Những gì chúng ta có thể sờ, nếm, ngửi. Các
kinh nghiệm tập thể thiếu cái „nền vật chất” hay
cơ chế xã hội cho phép chúng kết tinh và mở đường
đến sự thật chung, khách quan, bên trên cá nhân.
Nhưng
vì sao lại thế, thưa giáo sư?
Ai
đó đã nói rất đúng rằng người tiêu dùng là kẻ thù
của công dân. Công dân quan tâm đến sự thật có giá
trị xã hội vượt lên trên cá thể, bởi anh ta tìm kiếm
sự viên mãn trong cộng đồng mà anh ta thuộc về, hay
cộng đồng mà anh ta muốn lập ra. Người tiêu dùng chỉ
quan tâm đến việc thỏa mãn các ham muốn cá nhân của
mình. Anh ta không nghĩ đến sự thật hay dối trá. Anh ta
chỉ sử dụng khía cạnh hữu dụng, dễ chịu, vui vẻ.
Trong thế giới của những người tiêu dùng mối giao tiếp
giữa ecclesie và oikos bị cắt đứt. Các nhân vật của
công chúng thậm chí bảo đảm với chúng ta rằng công
bằng là khái niệm rỗng được các nhà tư tưởng bịa
ra, rằng chỉ có quyền lợi cá nhân là hiện thực và
rằng – ngay cả nếu thuật ngữ „xã hội công bằng”
có nghĩa gì đó - thì chính là sự khuyến khích các quyền
lợi cá nhân. Nhưng nếu chỉ tồn tại các quyền lợi
thì chúng ta phải tìm sự thật như thế nào? Thứ luật
chung nào là khả dĩ trong thế giới người tiêu dùng? Tôi
không nói đến lời giải đáp triết học. Tôi là nhà xã
hội học và với tư cách một nhà xã hội học, tôi cảm
thấy bất an vì sự biến mất rõ rệt của các cơ chế
xã hội truy tầm sự thật.
Có
nghĩa là kỷ nguyên dối trá đang chờ đợi chúng ta?
Điều
này phụ thuộc vào mọi người, mà mọi người, đáng
tiếc, lại thờ ơ với sự thật.
Ở
Ba Lan người ta không tranh cãi về chuyện gì khác cả. Ai
nói dối? Ai nói dối hơn? Ai lừa đảo? Sự thật và dối
trá là chủ đề số 1.
Nhưng
sự thật nào? Những sự dối trá nào? Ngày nay chúng ta
đưa đạo dức chính trị vào đạo đức cá nhân của
các chính trị gia. Clinton là một ví dụ tốt. Khi ông phá
bỏ hệ thống an sinh xã hội được Roosevelt thành lập
và Johnson xây dựng, khi ông hủy bỏ các chương trình xã
hội liên bang và chuyển chúng cho các tiểu bang, khi các
bang bắt đầu cạnh tranh để cắt giảm trợ cấp, vì
mỗi tiểu bang đều muốn tránh làn sóng đói nghèo tràn
sang từ bang lân cận, người ta không đặt vấn đề đạo
đức đối với ông ta. Mà ông ta đã nghi ngờ nguyên tắc
đạo đức cơ bản rằng trách nhiệm của nhà nước là
chăm lo cho dân chúng. Nhưng khi ông nói dối về chuyện
ngoại tình với thực tập sinh, người ta đòi phải bãi
nhiệm ông vì lý do đạo đức. Người ta công nhận rằng
tổng thống đã vi phạm nguyên tắc luân lý.... Đây là
đặc trưng của tình hình mới. Sự dối trá hay vụ ngoại
tình hủy diệt chính trị gia. Nhưng vi phạm đạo đức
của đời sống xã hội thì có thể dễ dàng xoay xở.
Khi vấn đề sự thật được giản lược đến việc nói
thật dẫu là của những cá nhân tuyệt vời nhất, thì
sự thật về xã hội, về tình trạng và số phận của
cộng đồng biến mất khỏi tầm mắt. Nếu chính trị
gia nói dối, có thể lột mặt nạ anh ta và bãi nhiệm.
Có các công cụ để làm việc đó. Công tố viên, tòa
án, các nhà báo tò mò hay các ủy ban điều tra. Nhưng khi
những sự thật của chung sống xã hội bị dối trá,
người ta chủ yếu im lặng. Bởi các sự thật định
đoạt số phận chung của chúng ta không thể được xác
định bởi các công tố viên, các quan tòa và các ủy ban
điều tra. Việc xác định chúng đòi hỏi phải có agora.
Mà agora đang biến mất.
Nghĩa
là lỗi lại ở sự tiêu dùng?
Chủ
nghĩa tiêu thụ – một phần. Nhưng không chỉ có mình
nó. Sự tràn ngập thông tin cũng có thể tạo điều kiện
cho dối trá áp đảo. Truyền thông đương đại cũng vậy.
Kỹ thuật truyền đạt thông tin và kỹ thuật truy tầm
sự thật được chi phối bởi các lô gíc khác nhau. Nguồn
thông tin phổ biến nhất hiện nay là truyền hình về bản
chất không thể gây sự chú ý của người xem trong khoảng
thời gian cần thiết để đưa ra căn bản của luận
điểm. Trong cuộc tranh luận trên truyền hình, cùng lắm
chỉ có thể làm người đối thoại điếc tai và tương
vào anh ta (và vào khán giả) những lời châm chích ngắn
ngủi. Mà truy tầm sự thật thì cần tập trung và gắng
sức. Chẳng bao giờ đến được với sự thật bằng
những tiếng la hét hay những lời châm chích. Khi cuộc
tranh luận dẫn đến trận khẩu chiến bằng những lời
châm chích, việc phân biệt sự thật và dối trá là bất
khả.
Nhất
định phải thế, hay đó chỉ là một giai đoạn lịch sử
thôi?
Tôi
không bao giờ chấp nhận là tình hình phải như nó đang
là. Nếu chúng ta phản kháng, nếu chúng ta trò chuyện vài
giờ – như chúng ta đang làm, chứ không phải vài phút,
thì sự thật sẽ khá hơn. Thông tin đưa ra càng quá liều
và càng nông thì càng ít có cơ hội cho một cuộc tranh
luận nghiêm túc, chúng ta càng có nhiều khả năng bị
chìm trong dối trá. Chúng ta đứng trước lựa chọn –
và chúng ta sẽ ra sao cũng phụ thuộc vào chúng ta.
Ông
muốn thay đổi số phận của thế giới bằng lời nói?
Anh
biết không, người ta từng hỏi Cornelius Castoriadis: „Ông
muốn thay đổi thế giới à?”. Và ông trả lời: „Xin
Chúa che chở cho tôi! Tôi chỉ muốn thế giới tự thay
đổi. Như nó đã từng làm thế trong lịch sử của
mình”.