Từ lần cuối cùng tôi  nghỉ hè bên bờ biển Baltic, đã hơn mười năm trôi qua. Trong vòng hơn  mười năm ấy, dĩ nhiên đã có những lần gặp gỡ ngắn ngủi khác, nhưng chỉ  là thoáng chốc và không trọn vẹn. Tôi cũng chẳng nhớ nhung, Baltic quá  gần để nhớ nhung. Khi chuẩn bị cho chuyến đi này, tôi không có cảm giác  mình đang lên đường. Có chút gì đó như hờ hững như thờ ơ như không hề  mong đợi. Mặc dù sẽ đến một thành phố xa lạ, nhưng tôi biết rằng ở đó sẽ  chẳng có gì quá xa lạ với mình. Vẫn là thứ ngôn ngữ đang vây bọc tôi  hàng ngày. Ngôn ngữ không thay đổi thì dường như chẳng có gì để mà hồi  hộp, để tò mò và ngạc nhiên, để cảm thấy mình sẽ khám phá những điều mới  lạ.
Vậy mà tôi đã ngạc nhiên, đã khám phá những điều mới  lạ, không phải ở nơi nào xa xôi mà chính trong lòng mình. Vì thế, tôi sẽ  không tả cảnh, không kể chuyện, tôi sẽ chỉ viết về những nỗi ngạc  nhiên, về những ngỡ ngàng và thích thú.
Tôi ngạc nhiên sao  mình lại xúc động đến thế khi trên con tàu băng qua Ba Lan, tôi mải mê  ngắm nhìn như mới thấy lần đầu những bình nguyên xanh mướt, những vườn  táo lấm tấm quả, những cánh đồng vàng rượi sau mùa gặt, những rừng bạch  dương âm u trong mây mù...,những gì tôi tưởng đã quá thân quen. Một cảm  giác bình yên lan tỏa, từ từ và lặng lẽ, nhẹ nhàng và mềm mại. Để rồi  khi tất cả dần chìm vào làn mưa, cảm giác bình yên ấy như một làn ánh  sáng dần sáng lên quanh tôi. Mưa càng nặng hạt, gió càng tạt mạnh vào  con tàu, bầu trời càng sầm tối thì ánh sáng ấy càng rực rỡ. Như thể bao  nhiêu ấm áp, bao nhiêu êm ả của những bình nguyên vườn táo cánh đồng khu  rừng đã dồn hết về đây, trong toa tàu này, để thắp cho các ngọn đèn mỗi  lúc một sáng hơn. Giữa tâm ánh sáng ấy, tôi ngồi thật lặng im khi con  tàu lao nhanh trong mưa gió, bất động trong chuyển động, và, hơn bao giờ  hết, lòng thăm thẳm bình yên.
Baltic trong mưa. Trước  phòng tôi, từ ban công nhìn ra, biển xa hút tầm mắt. Bước một cái là  xuống biển, vậy mà tôi vẫn chưa thể chạm vào biển. Baltic nấp sau tấm  màn mưa xám đục, bắt người ta phải chờ đợi và kiên nhẫn. Tôi ngạc nhiên  sao mình không chán nản mà thậm chí còn thấy dễ chịu. Tôi vui thích lắng  nghe tiếng mưa đổ xuống hòa cùng tiếng sóng biển và tiếng gió cuộn  trong những vòm cây tạo thành một khối âm thanh rì rào đặc sánh, thứ âm  thanh tôi chưa từng được nghe. Những nhạc cụ ướt lạnh lướt thướt ấy -  mưa, gió và sóng biển – kỳ lạ thay, lại làm nên một bản hòa tấu ấm áp,  hài hòa, khiến người ta có cảm giác êm ả như trong đêm tất niên của thời  thơ ấu ngồi nghe nồi bánh chưng sôi.
Baltic mưa và tôi  ngồi đọc Nhiệt đới buồn. Tôi gặp lại Kapuściński trong những trang viết  của Claude Lévi-Strauss, ở Ấn Độ, ở Nam Mỹ, ở những suy tư và đào xới  sâu hơn là du ký, ở cái nỗ lực để thấu hiểu và cảm thông với những Người  khác. Tôi nhớ Kapuściński, nhớ mơ ước chưa thành của ông là làm một  chuyến du hành trên biển theo dấu chân Bronisław Malinowski (nhà nhân  học Ba Lan kiệt xuất, người thường được coi là một trong những nhà nhân  học quan trọng nhất của thế kỷ 20).
Khi mưa tạnh, những  tia nắng đầu tiên dịu dàng xuyên qua bầu trời đầy mây rọi vào phòng,  nghe tiếng còi tàu đầu tiên vang lên ngoài biển, tôi nhìn ra ban công và  thấy những cánh chim đầu tiên bắt đầu chao liệng trong không trung trên  mặt biển lấp lánh ướt, giống như nụ cười đang từ từ bừng nở trên gương  mặt bé thơ còn long lanh nước mắt. Từ ban công này, trong xa vắng Địa  Trung Hải, trong thương nhớ những đám mây và bầu trời của Szymborska,  tôi sẽ còn nhiều lần nhìn ngắm trời mây Baltic với nỗi ngạc nhiên tinh  khôi nhất. Trong một ngày mùa hè, bầu trời Địa Trung Hải luôn xanh thẳm.  Nhưng bầu trời Baltic thì khác, nó sinh động và biến đổi không ngừng.  Vẻ đẹp bầu trời Địa Trung Hải là vẻ đẹp của sự ngưng đọng và tĩnh lặng,  của mãn nguyện và bình yên, thanh thản, vẻ đẹp của huyền thoại và quá  khứ, của vĩnh cửu và hoàn hảo. Bầu trời Baltic mang vẻ đẹp của chuyển  động và thay đổi, của ngạc nhiên, mong đợi và tuơng lai, vẻ đẹp của  khoảnh khắc và cái mong manh vô thuờng, của sự bất toàn và day dứt, như  chính cuộc sống.
Những ngày nằm dài trên bãi biển, tôi  thích thú nghe tiếng rao của những người đi bán dạo. Những tiếng rao!  Tuổi thơ của tôi làm sao có thể thiếu những âm thanh mời gọi và vui vẻ  ấy, ngày tháng xa xưa ở Việt Nam. Thật bất ngờ khi các con tôi bây giờ  vẫn còn được nghe những tiếng rao trong muôn vàn âm thanh của cuộc sống.  Rất lạ là hơn mười năm trước, không có những người bán dạo trên bãi  biển. Cứ như mọi thứ đi ngược thời gian. Hay đúng hơn, có những dòng  chảy ngược xuôi thời gian đan xen vào nhau. Vì tôi chìm trong một cảm  giác mới lạ khác khi nghe xôn xao quanh mình không chỉ là tiếng Ba  Lan,tiếng Việt, mà cả tiếng Đức, tiếng Ý, tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng  Nga... Mười năm trước, bức tranh ngôn ngữ đơn điệu hơn nhiều. Và giữa  những dòng ngược xuôi thời gian ấy, tôi luôn tròng trành trong cảm giác  lạ mà quen, quen mà lạ, vừa là trở lại vừa là ra đi.
Ngày  trở về, tàu lại băng qua những cánh đồng và những bình nguyên giờ đây  ngập nắng, những rừng bạch dương lấp lánh thân bạc, những trảng cỏ xanh  miên man có đàn bò sữa màu lông loang lổ trắng đen... Giữa không gian  tươi sáng ấy, tôi ngỡ ngàng nhận ra các nhà ga trông vẫn tồi tàn và cũ  kỹ làm sao, không khác gì hơn mười năm trước. "Ga nhỏ ồn ào, hồi hộp  nỗi riêng chung / Ta sẽ nhớ khung cảnh này mãi mãi."(*) Những sân  ga lưu giữ bao ký ức nhọc nhằn của người Việt trên mảnh đất Ba Lan một  thời đã xa, những sân ga bao giờ cũng khiến sống mũi như cay,  bất chấp  bao thay đổi của cuộc sống, của thời đại, như đã vĩnh viễn dừng lại ở  một điểm nào xa lắc trong quá khứ. Và một lần nữa, tôi lại thấy mình  đang trở về trong chuyến đi xa.
Vì những chuyến đi xa luôn  là sự trở về.
 
 
---
(*) thơ  B.Kornilov,Thụy Anh dịch