Showing posts with label opera. Show all posts
Showing posts with label opera. Show all posts

Monday, 18 May 2009

(opera) Rigoletto



(Giọng ca sopran xuất sắc của Ba Lan Aleksandra Kurzak trong vai Gilda và Andrzej Dobber trong vai Rigoletto)

***
Tóm tắt nội dung
Rigoletto, vở opera nổi tiếng của Giuseppe Verdi, được viết dựa trên cốt truyện vở kịch „Đức vua tiêu khiển” (Le Roi s’amuse) của Victor Hugo. Rigoletto là tên lão hề của vị công tước chơi bời trăng hoa xứ Mantua. Rigoletto bị căm ghét vì thường đem số phận và phẩm giá của người khác ra làm trò cười bằng miệng lưỡi rắn độc của mình. Trong một buổi dạ hội ở cung điện của công tước, hắn bị bá tước Monterone nguyền rủa bằng những lời rất độc địa.
Rigoletto có một người con gái xinh đẹp tuyệt trần là Gilda mà hắn vô cùng yêu quý. Hắn bảo vệ con gái như giữ con ngươi trong mắt mình. Không may, Gilda lại đem lòng yêu công tuớc Mantua và nhầm tưởng hắn là một học trò nghèo tên Gualter Malde mà nàng vẫn gặp trong những buổi đi lễ nhà thờ. Gilda bị đám cận thần của công tước phát hiện ra khi chúng đang âm mưu bắt cóc vợ bá tước Ceprano về cho công tước tiêu khiển. Thay vì bắt cóc vợ bá tước Ceprano, chúng đã bắt cóc Gilda. Để rửa nhục cho con gái, Rigoletto thuê tên giết người chuyên nghiệp Sparafucile giết công tước Mantua. Em gái của Sparafucile, Maddalena, là một vũ nữ. Khi Sparafucile muốn giết ai, Maddalena quyến rũ người đó, chuốc rượu rồi Sparafucile ra tay.
Rigoletto đưa Gilda đến quán rượu để nàng nhìn tận mắt công tước Mantua tán tỉnh Maddalena như thế nào. Mặc dù vậy, khi biết cha mình thuê Sparafucile giết công tước, và khi thấy Sparafucile đồng ý với Maddalena rằng nếu có người gõ cửa quán trước lúc nửa đêm, hắn sẽ giết người đó thế mạng cho công tước, Gilda đã giả làm người khách bộ hành tình cờ xin trú chân. Nàng chết thay cho công tước vì trong lòng vẫn còn yêu hắn. Vở opera kết thúc trong nỗi đau tột cùng của Rigoletto khi phát hiện ra cái xác không phải là công tước Mantua mà chính là con gái mình.
Rigoletto là bi kịch của một lão hề luôn phải khiến cho chủ mình vui cười, một con người chỉ được phép hài hước, vui vẻ, bị tước mất quyền biểu lộ những cảm xúc thực sự, để rồi trở thành vô cảm và lại trút những bi kịch lên số phận người khác. Bi kịch của Rigoletto lên đến đỉnh điểm khi hắn mất đi tất cả, mất đứa con gái mà hắn nâng niu và yêu thương, người duy nhất gợi lên trong hắn những tình cảm dịu dàng, như một tia sáng mong manh duy nhất trong cuộc đời tăm tối của hắn. Rigoletto cũng là bi kịch của những người phụ nữ khi họ bị đàn ông đem ra đùa giỡn, cho dù đó là Gilda với tình yêu ngây thơ trong trắng, đầy dâng hiến và không chút vụ lợi. Gilda đáng yêu nhất, dịu hiền nhất lại bị số phận giáng những đòn thảm khốc nhất. Và Rigoletto còn là bi kịch của vòng quay “tội ác và hình phạt”, cái bánh xe nghiệt ngã trong tăm tối đã nghiền nát loài người từ thời cổ xưa, với những tiếng thở dài buồn thảm của thuyết định mệnh.

Từ Paris đến Mantua

Tuy dựa trên cốt truyện vở kịch của Victor Hugo, nhưng bối cảnh và các nhân vật đã phải thay đổi nhiều. Nhân vật chính của “Đức vua tiêu khiển” là Triboulet, một nhân vật lịch sử có thật, là anh hề nổi tiêng của vua Louis XII và Francis I. Vở kịch với những hơi hướng chống đối chính quyền ra mắt quần chúng ngày 23.11 năm 1832. Ngay hôm sau, vở kịch bị tạm treo không cho công diễn, và bị cấm hẳn vào ngày tiếp theo, 24.11.1832. Mãi 50 năm sau, đúng ngày 22.11.1882, “Đức vua tiêu khiển” mới được công diễn lần thứ hai, nghĩa là 31 năm sau buổi ra mắt Rigoletta của Verdi.

Trong Rigoletta, địa điểm, thời gian và tên nhân vật đều được thay đổi. Không còn là hoàng cung nước Pháp thế kỷ XV-XVI với Triboulet, mà là cung điện của công tước xứ Mantua (miền Bắc nước Ý) vào khoảng đầu thế kỷ XVII và lão hề Rigoletto (cái tên Rigoletto, không biết vô tình hay cố ý, lại có gốc là rigolo, tiếng Pháp có nghĩa là người buồn cười, người kỳ cục). Trước khi được quyết định trở thành công tước xứ Mantua, ban đầu, nhân vật của Verdi là công tước Vendôme. Vở opera lúc đầu mang nhan đề “Lời nguyền" nhưng cuối cùng đổi thành Rigoletto. Tất cả những thay đổi này đều bởi vì vở opera của Verdi cũng gặp phải khó khăn từ phía người kiểm duyệt: nhan đề không được “nhạy cảm” như thế, vở opera nhất định không được nhắc đến Francis I hay bất cứ vị vua nào, không được có những tư tưởng chống đối chính quyền. Điều này cũng ảnh hưởng phần nào đến nội dung tác phẩm, các mạch bi kịch bị mất cân bằng khi công tước Mantua - người đã gây ra bao nghiệp chướng - lại nhởn nhơ chơi bời, từ đầu đến cuối không hề gặp một hình phạt nào. Bản thân Verdi cũng từng viết rằng “đáng lẽ nên có cảnh Gilda trong phòng ngủ của công tước (trong “Đức vua tiêu khiển”, khi Blanche vùng ra khỏi tay Francis I để chạy trốn, nàng đã chạy vào...phòng ngủ của vua). Trong cảnh này sẽ có một duet, và là một duet tuyệt vời!” Nhưng các thầy tu sẽ không đồng ý.

Bước ngoặt

Rigoletto là vở opera đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp của Verdi cũng như trong lịch sử opera. Trong Rigoletto, cái đẹp của âm nhạc chiếm vị trí trung tâm với các giai điệu và việc đặt chúng “đắc cách” vào các tình huống bi kịch. Vẫn còn phong cách bel canto, nhưng không phải là thứ bel canto vô cảm chỉ cốt để phô diễn giọng hát. Mạch sáng tác này tiếp tục được phát triển trong các tác phẩm tiếp theo của Verdi. Rigoletto và các vở ngay sau đó là Trubadur, Traviata (Trà hoa nữ), đã mở ra một loạt các vở opera với những tuyệt tác như Vũ hội hóa trang, Don Carlos, Aida, Otello và Falstaff. Rossini, sau buổi công diễn đầu tiên của Rigoletto ở Paris đã nói “Cuối cùng tôi đã tìm thấy thiên tài của Verdi trong âm nhạc của vở Rigoletto”.

Mặt khác, công chúng của Verdi trước đây chỉ quen với các vở mà nhân vật chính thể hiện tình yêu lý tưởng với đất nước và chiến đấu để giải phóng nó, quen với những màn kết hùng tráng và các dàn đồng ca. Nhưng trong Rigoletto, trung tâm của vở kịch là bi kịch của từng con người, từng cá nhân, “tất cả nảy sinh từ con người, có tác động trong con người và chỉ tìm được các giải đáp cho mình ở con người”, như triết gia người Ý Bontempelli đã nói. Những con người sống động, đầy các tình huống thường ngày, những tình cảm muôn thủa của con người như tình yêu, ghen tuông, thù hận khiến cho opera của Verdi rất gần với bi kịch Shakespeare. Theo Henryk Swolkień, kể từ Rigoletto, các nhân vật của Verdi ngày càng trở nên nhạy cảm hơn. Như Violetta trong Traviata (Trà hoa nữ), Renato trong Vũ hội hóa trang, thậm chí là Amneris trong Aida.

Thành công vang dội

Rigoletto công diễn lần đầu vào ngày 11 tháng 3 năm 1851 tại Gran Teatro La Fenice (Venice). Thành công tuyệt đối! Khán thính giả cuồng nhiệt với quartet ở hồi cuối “Bella figlia dell’amore”. Aria kết thúc hồi II được yêu cầu hát lại ba lần. Tổng số các lần bis lên tới mười hai! Khán giả ra về và hát vang bài hát của công tước “La donna è mobile”, và từ đó nó trở nên vô cùng nổi tiếng. Verdi đã đoán trước được điều này, nên ông đưa bản nhạc của bài hát này cho giọng ca tenor đảm nhận vai công tước chỉ một ngày trước buổi diễn và bắt anh phải thề không được hát lên thành tiếng, không được cho ai xem. Đây là bài hát rất dễ nhớ, những người nghe nó sẽ thuộc ngay, và Verdi không muốn nó bị hát ngoài phố trước ngày công diễn. Cả dàn nhạc cũng phải thề y như vậy, và bí mật đã được giữ kín. Phản ứng của khán giả sau đêm công diễn cho thấy sự thận trọng của Verdi là không thừa.

Ngay ngày hôm sau, tờ “Gazzetta” của Venice viết: “Đêm qua chúng ta dường như bị những điều mới mẻ vây chặt: cái mới của âm nhạc, cái mới của phong cách, cái mới trong hình thức của từng phần...”

Chỉ trong mùa diễn đầu tiên, Rigoletto đã được công diễn 21 lần. Các nhà hát khắp nước Ý đua nhau trình diễn Rigoletto. Vở opera nhanh chóng có mặt trên sân khấu nước ngoài, sớm nhất là ở Graz, Budapest, Praga, Lubeka, Stuttgat, Brema, Hannover, London. Hai năm sau, vào năm 1853, Rigoletto được trình diễn ở Warzawa, Ba Lan.

Tiếng vang của Rigoletto tất nhiên đã bay đến Paris. Có một điều thú vị là việc trình diễn Rigoletto ở Paris lại bị chính Victor Hugo phản đối. Duy nhất vì lý do tác quyền. Mãi đến tận năm 1857 Nhà Hát Ý mới xin được các giấy phép của tòa án để trình diễn Rigoletto, ở Paris vở opera cũng gặt hái thành công vang dội. Victor Hugo dù không thay đổi quan điểm của mình, vẫn thán phục phần âm nhạc của vở kịch, nhất là quartet nổi tiếng.

Quả thật, trong Rigoletto đầy ắp giai điệu với các ballad (“Questa o quella”) , aria (“Caro nome”, “Parmi veder le lagrime”, “La ra, la ra”, “Cortigiani!”, “Tutte le feste al tempio”, “la donna è mobile”), duet (“Deh, non parlare”, “E il sol dell’amina”, “Si, vendetta!”, "Lassu in cielo") và quartet nổi tiếng “Bella figlia dell’amore”, đòi hỏi kỹ thuật cực kỳ cao. Cũng chính vì thế, điều kiện tiên quyết để vở opera được biểu diễn thành công là các giọng ca. Toàn bộ xương sống của vở opera được dựng trên giọng ca của các nhân vật chính là công tước (tenor), Gilda (sopran) và Rigoletto (barytone). (Ở đây, nhân vật phản diện, công tước Mantua, lại là giọng tenor, điều rất ít gặp trong các vở opera.) Rigoletto không phải là vở opera mà các giọng ca có thể giấu đi hay xóa bớt các khiếm khuyết của mình vào các cảnh dựng hoành tráng đông người với các dàn đồng ca. Trong vở này, các nghệ sỹ phải thực sự hát hay, không chỉ solo, mà cả trong duet, trio hay quartet. Phần dàn dựng có thể lui xuống thứ yếu, nhất là để khắc họa tính bi kịch, sân khấu càng không nên dàn dựng cầu kỳ (trừ màn đầu của hồi I, khi bối cảnh là buổi vũ hội trong cung điện của công tước).

Mặc dù được khán giả đón nhận nồng nhiệt ngay từ đầu và sự nồng nhiệt ấy vẫn chưa bao giờ thuyên giảm, Rigoletto lại bị giới phê bình thời đó hắt hủi. Tưởng như không ai có thể nghi ngờ về sự phong phú trong giai điệu của vở Rigoletto, vậy mà tờ “Gazette Musicale” của Paris lại nhận xét là “il n’y a pas de mélodie!” (không có giai điệu!). Tờ Times của London viết: “Rigoletto là vở opera kém cỏi nhất của Verdi, nghèo nàn nhất và hoàn toàn không có chút sáng tạo. Đi sâu vào phân tích chỉ mất thời gian và phí chỗ”.

Nhưng thời gian đã chứng minh rằng khán giả không lầm. Ngày nay, chúng ta có thể xếp Rigoletto vào trong số mười vở opera nổi tiếng nhất thế giới. Bản thân Verdi, người luôn là vị giám khảo nghiêm khắc nhất đối với các tác phẩm của mình, cũng rất hài lòng với Rigoletto. Ông nói với giọng ca barytone Varesi, người đảm nhận vai Rigoletto trong lần công diễn đầu tiên năm 1851:“Tôi nghĩ rằng mình không bao giờ viết được vở nào hay hơn nữa ...”

(5.2009)

Friday, 24 April 2009

(opera) La Boheme



Nhắc đến La Boheme của Giacomo Puccini, người ta thường liên tưởng đến ngay những người nghệ sỹ phóng túng của thành Paris cuối thế kỷ XIX, và những thứ gắn liền với họ như khu Latin, những căn phòng áp mái, căn bệnh lao phổi „thời thượng” và sự thiếu thốn triền miên...

Vở opera mở đầu với không gian là một đêm Giáng sinh mưa gió trong căn phòng của Rodolfo – một thi sĩ nghèo. Một không gian thật u buồn và ảm đạm. Rodolfo và các bạn của chàng – Marcello (họa sỹ), Schaunard (nhạc sỹ) và Colline (người say mê các triết gia và những cuốn sách triết học), nghĩa là đủ các thành phần của giới nghệ sỹ – quyết định kéo nhau đến tửu quán Momus để vui chơi. Những người bạn đã kéo nhau ra ngoài, Rodolfo còn nấn ná lại trong phòng một chút....

Bỗng nhiên cô gái hàng xóm xuất hiện. Cô xin lửa để thắp nến, rồi cô làm rơi chìa khóa... Thực ra tất cả những lý do đó đâu có quan trọng gì. Điều quan trọng là chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi ấy, họ bỗng nhiên cảm nhận được tình yêu... Người thi sỹ suốt đời coi khinh những kẻ giàu sang và Mimi - cô gái yêu thơ, yêu hoa, yêu mùa xuân ấy đã tìm thấy trong khoảnh khắc tất cả sự tin yêu trong cuộc đời. Tất cả chỉ là trong chớp mắt. Mimi đã đi cùng với Rodolfo đến quán Momus, còn Rodolfo thì nói với các bạn của mình: „Tôi là thi sỹ, còn Mimi là Nàng thơ của tôi!” Phải chăng tình yêu đích thực luôn là như thế - xuất hiện vào những thời điểm bất ngờ nhất, chẳng theo một quy luật hay chuẩn mực nào, chỉ là sự đồng cảm tuyệt đối và niềm tin sâu thẳm từ đáy tim...

Nhưng hạnh phúc thật ngắn ngủi. Hạnh phúc thực sự vốn là ngắn ngủi như thế, hay trên sân khấu mọi thứ đều diễn ra nhanh hơn? Mimi bị lao phổi nặng, và nàng sắp chết. Sau những yêu thương và hờn giận, nồng nàn và cay đắng, vui sướng va ghen tuông... họ chia tay nhau. Ở đây Puccino đã để cho Rodolfo có một tình cảm rất đời thường, đó là nỗi sợ. Rodolfo có phần sợ bệnh lao phổi của Mimi! Vào thời Puccini người ta đã biết bệnh lao phổi có thể lây... Họ chia tay nhau mà không thể quên dược nhau. Và cảnh cuối cùng, một kiệt tác của Puccini, là cảnh Mimi chết. Rodolfo và những người bạn đang vui đùa cùng vài cô gái, thì Musetto – người tình cũ của Marcello – đưa Mimi tới. Cô sắp chết và muốn được nhìn thấy Rodolfo lần cuối. Bỗng nhiên tất cả những trò vui nhộn trở nên nhạt nhẽo, vô nghĩa và tầm phào như là cuộc đời phù du này, khi người ta đối diện với cái chết của người mà mình yêu thương. Không hiểu sao khi xem đến đây, nước mắt cứ giàn dụa chảy. Khi mình nhìn thấy một sự mất mát quá lớn mà không làm gì để ngăn nó lại được, khi mình chưa mất mà biết là sẽ mất, khi mình thấy mình đã lãng phí thòi gian vì những thứ không đâu, trong khi điều quan trọng nhất, thứ quí giá nhất, người mình yêu thương nhất lại đang lìa xa mình... Điều này có lẽ còn thương tâm hơn là cảnh Rodolfo thét gọi tên người yêu khi nàng đã chết. Người ta nói khi viết cảnh này, Puccini đã dùng những gam trầm sâu, và sau khi ông chơi những nốt nhạc ấy trên đàn piano giữa đêm khuya, ông đã bước ra giữa phòng và khóc nức nở như một đứa trẻ. Ông như tận mắt chứng kiến cái chết của nhân vật mình tạo ra. Mimi là nhân vật mong manh nhất của Puccini. Một nhà phê bình Ba lan viết: „Sau khi nghe những âm thanh này thì cuộc sống không còn như trước nữa. Không chỉ là cuộc sống của các nghệ sỹ, mà là cuộc sống của chính chúng ta”.

Vở La Boheme ra mắt khán giả lần đầu tiên tại Turin (Ý) vào năm 1896. Hai năm sau đó nó được trình diễn tại Nhà Hát Lớn Warszawa.

La Boheme lần này với sự dàn dựng của Trelinski ra mắt khán giả Warszawa lần đầu tiên vào tháng 3.2006. Ở đây, khán giả không còn thấy cái không khí cũ kỹ của Paris cách đây hơn một thế kỷ nữa. Đây là một câu chuyện muôn đời của những người nghệ sỹ: yêu tự do, phóng khoáng, ghét những chuẩn mực, địa vị, tiền tài... Không gian có thể là bất cứ đâu: New York, London, Warszawa hay Berlin… Những người nghệ sỹ của Trelinski mặc quần bò, áo da hoặc những chiếc váy gợi cảm… Họ không ở trong những căn phòng áp mái nữa, những studio áp mái với tầm nhìn ra thành phố bây giờ không còn là của họ, mà đã là của giới thượng lưu rồi. Bây giờ họ ở trong các khu nhà hộp cao tầng bằng bê tông… Nhưng tâm hồn họ thì muôn đời vẫn thế, những nỗi đau của họ thì muôn đời vẫn thế, tình yêu và cái chết thì muôn đời vẫn thế… Và đây chính là điều Trelinski muốn nhấn mạnh – tình yêu và cái chết. Ông nói người ta đã để cho cái không khí Paris làm lu mờ mất cái cốt yếu nhất của tác phẩm này. Những sắc thái của tình yêu, cuộc sống và cái chết, qua câu chuyện của Rudolfo và Mimi hay Marcello và Musseta, được thể hiện qua âm nhạc của Puccini thật tuyệt vời. Đây là một vở rất khó, nhịp điệu và sắc thái luôn thay đổi, đòi hỏi các nghệ sỹ phải có trình độ cao và cả kinh nghiệm dày dạn nữa. Trong buổi diễn lần này, các vai chính đều do các nghệ sỹ của nhà hát St. Peterburg đảm nhận.

(opera) Madame Butterfly


Madame Butterfly của Giacomo Puccini là vở opera dựa theo vở kịch cùng tên của David Belasco. Puccini có dịp xem vở kịch này khi sang London dự buổi ra mắt vở Tosca ở nhà hát Convent Garden. Mặc dù một chữ tiếng Anh bẻ đôi cũng không biết, nhưng vở kịch đã gây cho ông ấn tượng vô cùng sâu sắc.

David Belasco (1853-1931) mà tên tuổi ngày nay đã hoàn toàn bị lãng quên, là một trong những nhân vật đặc sắc nhất của giới sân khấu Mỹ thời kỳ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Tổ tiên của ông là những người Do Thái Bồ Đào Nha phải bỏ trốn sang Anh từ thế kỷ XV vì bị đàn áp tôn giáo. Từ Anh, cha ông di cư sang California vào giữa thế kỷ XIX. David Belasco sinh ra tại San Francisco, nhưng lớn lên ở Victoria, Canada. Ban đầu, ông muốn làm linh mục, nhưng rồi lại đi theo tiếng gọi của sân khấu, cũng là tiếp nối truyền thống gia đình mà trong đó cha và bác ông đều là nghệ sỹ.

David Belasco viết “Madame Butterfly” vào năm 1900, vở kịch đã trở thành một trong những thành công lớn nhất của ông, được khán giả hoan nghênh nhiệt liệt không riêng ở Mỹ mà còn ở các quốc gia Anh ngữ khác. Vở kịch chỉ có vỏn vẹn 1 hồi, dựa theo tiểu thuyết cùng tên được đăng tải trên một tạp chí Mỹ 2 năm trước đó của Jonh Luter Long - một luật sư xem việc viết lách như một thú giải khuyây ngoài giờ làm việc. Tiểu thuyết của Long kể về cuộc hôn nhân giữa một geisha Nhật và một sỹ quan hải quân Mỹ, cuối cùng đổ vỡ vì những xung đột về chủng tộc, văn hóa, tâm hồn… Trong tiểu thuyết, bối cảnh câu chuyện xảy ra ở Mỹ và Nhật, nhân vật chính là nàng Cio-Cio San tự tử không thành vì được cứu kịp thời. Trong vở kịch của mình, Belasco tập trung cho câu chuyện xảy ra chỉ ở Nagasaki, và để thêm phần kịch tính nên đã cho nàng Cio-Cio San “một đi không trở lại”.

Viết libretto cho vở opera này là Luigi Illica và Giuseppe Giacosa. Ban đầu, vở opera được ấn định là chỉ có prologue (phần mở đầu), nơi diễn ra hôn lễ của Cio-Cio San và thuyền trưởng Pinkerton, và một hồi. Sợ rằng như vậy sẽ quá ngắn, Puccini kéo ra thành 2 hồi.

Vở opera được ra mắt khán thính giả lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1904 ở nhà hát La Scala, Milan và… thất bại thảm hại! Đó là một trong những ngày đen tối và cay đắng nhất trong suốt sự nghiệp nghệ thuật của Puccini. Mặc dù có một dàn nghệ sỹ tuyệt vời, vai chính do Rosina Storchio - giọng ca sopran trữ tình xuất sắc nhất của Ý thời đó đảm nhiệm, vở opera thất bại một cách không thể cứu vãn. Nhà hát như biến thành một địa ngục. La Scala đã chứng kiến nhiều buổi ra mắt thất bại, nhưng không khí bao trùm trong nhà hát ngày hôm đó là một điều thực sự bất thường.

Rosina Storchio kể lại: „Lúc 8 giờ rưỡi, tất cả chúng tôi đã sẵn sàng, phục sức và trang điểm xong xuôi ở trong hậu trường. Tito gọi chúng tôi ra sân khấu. Anh nhìn chúng tôi từ đầu đến chân. Anh hài lòng. Mọi thứ đều ổn cả… Puccini lại gần tôi và nói “9 giờ rồi, chúng ta bắt đầu thôi. Campanini đã ra với dàn nhạc.” Tôi tiến ra cánh gà. Nhà hát không yên ắng. Tôi có một linh cảm xấu. Tôi trở vào phòng thay đồ. Khi dàn nhạc bắt đầu chơi, tay trái tôi siết chặt lên trái tim, tay phải làm dấu Thánh 3 lần…

Các tình tiết quá nhiều trong phần đầu, mọi người bắt đầu mệt mỏi. Một nghệ sỹ đi vào cánh gà và chửi thề “Chó má, khán giả kiểu gì vậy! Họ không làm gì hết, chỉ ho thôi! Quỷ tha ma bắt họ đi...” Trán tôi vã mồ hôi lạnh. Những người phục vụ đã sẵn sàng mở đường, bây giờ đến lượt tôi. Tôi hát „ Làn gió mùa xuân tươi tắn thổi đến từ biển và từ đất liền...”, nhưng một sự im lặng thù địch bao trùm khắp phía dưới. Đột nhiên một tiếng kêu phá vỡ im lặng „La Boheme, La Boheme!” Những giọng khác lặp lại theo anh ta „La Boheme! La Boheme! Chúng tôi đã nghe cái này rồi!” Một phần khán giả phản ứng bằng cách vỗ tay, nhưng điều này càng làm cho những người kia phản đối dữ hơn. Một hồi rất dài sắp kết thúc. Duet của tôi và Pinkerton làm họ dịu xuống một chút, nhưng khi câu hát trên kia trở lại, những tiếng la hét lại nổi lên: „La Boheme! La Boheme!”.

Khi màn hạ xuống chỉ có một ít tiếng vỗ tay và rất nhiều tiếng phản đối.(...) Trong giờ nghỉ không một ai vào hậu trường. Không một người bạn, không một nhà báo.(..) Chúng tôi nhìn nhau không nói gì hết, nản lòng và kinh hãi. Tôi nhìn gương mặt Puccini, những mảng lớn đỏ ửng lan khắp mặt. Ông căng thẳng hút thuốc, hết điếu này đến điếu khác, không để ý đến những người nhân viên cứu hỏa đang làm nhiệm vụ đang vờ như không nhìn thấy gì (...)

Aria „Un bel di vedremo” được đón nhận trong tiếng la ó phản đối. Có thể chính tôi cũng không kiểm soát được giọng hát của mình nữa? Nhưng tôi đã chắc rằng minh không thể hát với một sự biểu cảm lớn hơn thế... Toàn bộ phần cuối của vở opera được nghe với một sự lạnh nhạt bàng quan. Cái chết của tôi không tạo ra được cho họ một chút ấn tượng nào. Butterfly kết thúc trong những tiếng huýt sáo và la ó.”

Sau đó, Madame Buterrfly không được trình diễn thêm một lần nào ở nhà hát La Scala trong thời gian Puccini còn sống.

Kết cục thảm khốc của buổi ra mắt là một đòn đau giáng xuống Puccini. Ông kể lại: „Đó là một buổi tối khủng khiếp. Sự thất bại không mong đợi đã đâm tôi thât sâu. Nhưng tôi nhất quyết đương đầu với cảm xúc nổi loạn. Tôi quá yêu tác phẩm của mình để có thể tin vào những đánh giá khách quan đã làm tổn thương nó đến thế (...) Buổi tối hôm đó, đầy đau đớn, tôi đã thét lên tiếng kêu phản kháng. Nhưng ngày hôm sau tôi cảm thấy vô cùng tan nát và hổ thẹn. Tôi không khóc vì 3 năm công sức của mình, nhưng tôi buồn khi thấy giấc mơ thơ mộng mà tôi ôm ấp với một tình yêu như thế tan vỡ. Trong khoảnh khắc đó, tôi tưởng rằng mình không thể sáng tác thêm được một nốt nhạc nào nữa...”

Nhưng Puccini không gục ngã. Chỉ 2 ngày sau ông đã viết thư cho anh rể: „Anh Massimo thân mến! Anh hãy yên lòng, giống như tôi vậy. Đám mafia tàn bạo tra tấn tôi, nhưng không làm tôi gục ngã được. Butterfly sẽ sống lại, sẽ nở hoa, và sự hồi sinh sẽ đến rất nhanh thôi, rồi anh sẽ thấy!”

Quả vậy, thành công của Madame Butterfly đến ngay sau đó, vào tháng 5.1904 ở Nhà Hát Lớn Brescia. Thành công rực rỡ hoàn toàn bù đắp lại thất bại ở La Scala hôm nào. Có tới 7 đoạn bị khán giả yêu cầu hát lại. Người ta gọi tên Puccini mãi không thôi. Điều này khá lạ lùng vì Brescia cách Milan không xa, và rất đông khán giả hôm đó đến từ Milan, trong số đó có thể nhiều người mới chỉ 3 tháng trước đó đã „phỉ nhổ” Butterfly.

Một tháng sau, Madame Buttefly chinh phục Buenos Aires và thành công vang dội. Ngày nay, vở opera này trở thành một trong những vở được trình diễn nhiều nhất trên thế giới.

Nghe aria Un bel di vedremo

Thursday, 23 April 2009

La Traviata - Trà hoa nữ


Còn nhớ tới quê hương xa xôi
Ngày con cất tiếng khóc trong nôi
Tuổi ấu thơ bao năm êm trôi
Mẹ ru con ngay đã xa rồi.
Đồng lúa chín tắm nắng quê hương
Dòng sông xanh mang bao yêu thương
Nhìn thông reo như đang rì rào
Chờ mong con mau mau quay về.
Trở về nhà con trai yêu nhé!
Không can chi buồn thương khổ đau
Trở về làng quê ta yêu dấu
Uống nước trong lành nơi đồng sâu
Và những giấc mơ xưa xa xôi
Con hãy nghe cha quên đi rồi
Đồng quê yêu dấu, thương mến đang chờ
Trở về đi thôi
Ngày tháng dần trôi
Ước mong sao những ngày hiu quạnh cha hằng mong đợi
Hãy trở về với gia đình yên vui!



Đoạn aria này trong hồI II của vở La Traviata (Trà hoa nữ) là lời người cha Germont khuyên con trai Alfredo trở về quê nhà. Đây là aria duy nhất bằng tiếng Việt mà tôi thuộc, dù chỉ nghe đúng 1 lần trên chương trình nhạc giao hưởng thính phòng của Đài tiếng nói Việt Nam vào một buổi trưa năm tôi chừng 12-13 tuổi… Không hiểu sao đoạn aria này lại khắc sâu vào tâm trí tôi đến thế, không hiểu sao tôi lại rất thích nó. Có thể vì lời người cha tha thiết quá, có thể vì tôi sẵn thích “Trà hoa nữ” của A.Dumas, cũng có thể vì không hiểu do đâu tim tôi đã nhói lên từ ngay câu đầu “Mẹ ru con nay đã xa rồi”, hoặc có thể vì đây chẳng phải là những lời hát yêu đương trai gái , mà tôi thì vốn hay thích tìm những thứ tình cảm khác trong thi ca, âm nhạc... hơn là tình yêu lứa đôi.

Có thể nói rằng tôi bắt đầu thích opera từ aria này.

Trong suốt hơn một thế kỷ rưỡi nay, La Traviata của Verdi luôn là một trong những vở opera nổi tiếng nhất. Người ta nói rằng đêm nào vở này cũng được trình diễn ở đâu đó trên thế giới.

Vở opera lấy cốt truyện “Trà hoa nữ” của A. Dumas, tiểu thuyết dựa trên một nhân vật có thật là nàng Maria Duplessis – một kỹ nữ (courtisane) nổi tiếng của Paris thời đó. Trong số những người say đắm nàng, ngoài A.Dumas còn có cả chàng Ferenc Liszt trẻ tuổi. Nàng chết trẻ năm 23 tuổi vì bệnh lao, trong xa hoa nhung lụa và sự ái mộ của không biết bao nhiêu đàn ông. Giới kỹ nữ cao cấp như Maria Duplessis là “đặc sản” của Paris thời đó, đặc sản của chủ nghĩa lãng mạn – sự lý tưởng hóa thứ tình bán mua.

La Traviata là khởi đầu đồng thời cũng là vở xuất sắc nhất cho thể loại opera và bi nhạc kịch mà trung tâm chỉ có một nhân vật: người phụ nữ và tình yêu của nàng. Các vở khác thuộc thể loại này là Tristan và Isolde của Wagner, Tosca và Madame Butterfly của Puccini, Pelléas và Mélisande của Debussy. Nhân vật chính của các vở này đều là những người phụ nữ giàu sang, phức tạp, nhạy cảm. Nhưng La Traviata của Verdi khác với tất cả các vở khác ở chỗ nó gắn chặt và bám rễ sâu từ cuộc sống thực tế, từ xã hội Paris đầu thế kỷ XIX. Paris lãng mạn, kinh thành ánh sáng, Paris của giới nghệ sỹ, của các thi sỹ, văn sỹ, nhạc sỹ, họa sỹ…, Paris của Balzac, Stendhal, Gautier, Victor Hugo, Dumas, Delacroix, Berlioz, Paris của opera, của kịch nghệ và sân khấu, Paris của trộm cắp, đĩ điếm, tội phạm, Paris của những kỹ nữ nổi tiếng, của những cuộc vui và hoan lạc triền miên…

Trong La Traviata, cấp độ của tình yêu và bi kịch tăng dần. Trong hồI I, tình yêu ở mức độ thấp hơn – tình yêu lạc thú tầm thường, thứ tình yêu của kỹ nữ mà biểu hiện của nó là những cuộc chơi hoan lạc triền miên… chiếm ưu thế. Nàng Violetta không tin vào tình yêu đích thực, có cảm động đôi chút về tấm tình của chàng Alfredo thì những lời cuối cùng của nàng khi hết hồi vẫn là “siempre libera” – tự do mãi mãi, tự do muôn năm, tự do để ăn chơi nhảy múa cho thỏa chí, tình yêu là cái quái gì!

Đây là đoạn Alfredo cùng tất cả mọi người nâng cốc vì tình yêu (Libiamo, libiamo) trong bữa tiệc, do 3 tenor Domingo, Carreras & Pavarotti hát:

http://www.youtube.com/watch?v=yOhQlWFdiik


Ở hồi II, tình yêu đã mang sắc thái cao hơn, nàng Violetta hy sinh vì hạnh phúc của người mình yêu, chia tay với Alfredo dù trong lòng vẫn rất yêu chàng. Bi kịch cũng lên cao. Tôi lúc nào cũng xúc động khi nghe những lời cuối cùng của Violetta nói với Alfredo “Vĩnh biệt Alfredo! Hãy yêu em, yêu em thật nhiều, hãy yêu em như em yêu anh!”. Người nghệ sỹ hát những lời này như dồn hết tất cả sinh khí trong lồng ngực tuôn vào lời hát, như một con chim hót những tiếng cuối cùng trước khi chết, những lời tha thiết cuối cùng cho người yêu thương để rồi sau đó là phải khoác vào mình cái mặt nạ lạnh lùng tàn nhẫn của kẻ bội tình…


HồI III, khi mọi hiểu lầm đã tan, tình yêu tưởng như đạt đến đỉnh điểm thì bi kịch cũng lên đến đỉnh điểm – Violetta chết vì lao phổi. Ở đây, tình yêu cao thượng đã chiếm ưu thế tuyệt đối. Những cuộc chơi phù phiếm đã chẳng còn một chút ý nghĩa gì (ví dụ như chi tiết hình ảnh và âm thanh rất xa xôi của những hội hóa trang ngoài đường phố).

Vở La Traviata trong buổi công chiếu lần đầu vào năm 1853 ở Venice đã thất bại thảm hại. Một trong những lý do của thất bại này là định kiến của xã hội và những nhà đạo đức nhan nhản ở Venice thời đó. Tựa đề “La Traviata” có nghĩa là “kỹ nữ”, “người đàn bà hư hỏng”. Người ta bực mình: tại sao một tình yêu cao cả như thế mà lại là của một kỹ nữ, chẳng lẽ ko còn ai biết yêu cao thượng nữa hay sao? Nhưng Verdi rất sáng suốt khi tin vào giá trị của Traviata, ông cho ra mắt lại nhưng đổi tên mới là “Violetta”, cho thời gian của câu chuyên lùi lại khoảng năm 1700, thay đổi chút trang phục cho phù hợp… Và thế là thành công vang dội! Sau đó, Traviata lấy lại tên ban đầu của nó, đã trở thành vở opera hàng đầu, một kiệt tác của opera trữ tình.