Nguyễn
Thái Linh*
Tranh chấp
chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có
thể xem như một trong những tranh chấp phức tạp, lâu
dài nhất trong lịch sử luật quốc tế. Các tranh chấp
đã kéo dài cả trăm năm và ngày càng trở nên căng thẳng
hơn. Thực tế tranh chấp với nhiều khía cạnh lịch sử,
pháp lý, chính trị v.v… đòi hỏi một nỗ lực tổng
thể khi tìm hiểu. Trong khuôn khổ bài viết ngắn này,
một cách khái quát, chúng tôi muốn trình bày và cân nhắc
luận thuyết của các bên tranh chấp dưới ánh sáng luật
pháp quốc tế.
Trong tranh
chấp Hoàng Sa, các bên tranh chấp là Việt Nam, Trung Quốc
và Đài Loan đều đòi hỏi chủ quyền đối với toàn bộ
quần đảo.
Tranh chấp
Trường Sa bao gồm các bên Việt Nam, Trung Quốc, Đài
Loan, Phillippines, Malaysia và Brunei, trong đó Việt Nam, Trung
Quốc và Đài Loan đòi hỏi chủ quyền đối với toàn bộ
quần đảo, Phillippines (mới tham gia tranh chấp từ năm
1951) và Malaysia (từ năm 1978) đòi hỏi chủ quyền với
một phần quần đảo, còn Brunei chỉ đòi hỏi một đảo
(Louisa Reef, từ năm 1984).
I. Luận
thuyết của Việt Nam:
1.
Từ thế kỷ XVI, Việt Nam đã có danh nghĩa pháp lý đối
với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa dựa trên quyền
phát hiện và chiếm cứ hiệu quả đối với lãnh thổ
vô chủ (terra nullius).
Theo luật
quốc tế, bản thân quyền phát hiện đầu tiên một lãnh
thổ vô chủ không đủ để tạo ra danh nghĩa pháp lý cho
quốc gia phát hiện. Muốn thụ đắc chủ quyền, quốc
gia này phải tiếp tục chiếm cứ
hiệu quả lãnh thổ đó. Hai nguyên
tắc cơ bản trong việc thụ đắc chủ quyền là nguyên
tắc thực sự, tức là chiếm hữu
thực sự lãnh thổ vô chủ, coi nó như một bộ phận
lãnh thổ của mình và thực thi quyền hạn nhà nước,
quản lý hành chính trong một thời gian hợp lý; và nguyên
tắc công khai – việc chiếm hữu
phải được các quốc gia khác công nhận.
Một cá nhân hay một công ty không thể thụ đắc chủ
quyền lãnh thổ.
Ngoài yếu
tố vật chất (corpus),
việc chiếm hữu thực sự đồng thời còn đòi hỏi yếu
tố tinh thần (animus)
nghĩ là ý chí của quốc gia muốn chiếm hữu lãnh thổ
vô chủ.
Để chứng
minh cho quyền phát hiện và chiếm hữu thực sự của
mình, Việt Nam đã đưa ra các luận cứ sau:
- Nhà nước
Việt Nam đã biết đến các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa khi đó được gọi dưới tên chung là Đại Trường
Sa, Hoàng Sa hay Vạn Lý Trường Sa và coi chúng là một
phần lãnh thổ của mình.
- Trong
suốt ba thế kỷ từ XVI đến XIX, chính quyền Việt Nam
đã thực thi liên tục chủ quyền của mình ít nhất là
trên quần đảo Hoàng Sa bằng cách thường xuyên cử các
đội thuyền Hoàng Sa và Bắc Hải đến các đảo này
hàng năm, trong nhiều tháng, để khảo sát, đo đạc, khai
thác tài nguyên một cách có hệ thống, thu lượm các tài
sản chìm đắm, xây miếu dựng đền và trồng cây như
các biểu tượng khẳng định chủ quyền, tổ chức thu
thuế, cứu trợ các tàu thuyền nước ngoài gặp nạn.
Việc thực thi chủ quyền này diễn ra hoàn toàn không gặp
bất cứ sự phản đối hay tranh chấp nào từ phía các
quốc gia khác, kể cả Trung Quốc, và có đầy đủ cả
yếu tố vật chất (corpus)
lẫn tinh thần (animus).
Để chứng
minh cho luận cứ này, Việt Nam đã đưa ra các nguồn tài
liệu chính thức của nhà nước như Đại Nam thực lục
tiền biên (1600-1775), Toàn tập Thiên Nam thống chí lộ đồ
thư (1630-1653), Phủ biên tạp lục (1776),
Đại Nam thực lục chính biên (1848), Đại Nam Nhất Thống
Chí (bộ sách địa lý lịch sử chung của Đại Nam
1865-1882), Lịch triều hiến chương loại chí (1821), Hoàng
Việt địa dư chí (1833), Việt sử cương giám khảo lược
(1876), các châu bản triều Nguyễn về các bản tấu, phúc
tấu, các dụ của các Vua, và hàng loạt bản đồ, tài
liệu của nước ngoài thời kỳ đó.
Các tác
giả Jaseniew Vladimir và Stephanow Evginii trong cuốn “Biên
giới Trung Quốc: từ chủ nghĩa bành trướng truyền thống
đến chủ nghĩa bá quyền hiện nay”, sau khi trình bày
các sự kiện cho thấy việc thực thi chủ quyền liên tục
của nhà nước Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng
Sa và Trường Sa cũng nhấn mạnh: “từ lâu đời, chính
quyền phong kiến Việt Nam đã sát nhập các quần đảo
như Hoàng Sa và Trường Sa vào bên trong biên giới lãnh
thổ nhà nước Việt Nam”.
2. Sau
khi thiết lập chế độ bảo hộ tại Việt Nam, Pháp đã
đại diện cho Việt Nam trong việc thực thi và bảo vệ
chủ quyền trên các quần đảo.
Năm 1899,
toàn quyền Paul Doumer ra đề nghị chính phủ Pháp một
hải đăng trên quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, công việc
này không thực hiện được vì thiếu ngân sách.
Ngày 8
tháng 3 năm 1925, toàn quyền Đông Dương tuyên bố Hoàng
Sa thuộc lãnh thổ nước Pháp.
Các chuyến khảo sát và nghiên cứu khoa học đã được
thực hiện ở quần đảo Hoàng Sa từ năm 1925 và ở
Trường Sa từ năm 1927.
Năm
1930, chính quyền Pháp ở Đông Dương cử phái đoàn đến
treo cờ trên quần đảo Trường Sa. Sau đó, từ năm 1930
đến 1933, các đơn vị hải quân Pháp đã chiếm cứ các
đảo chính của quần đảo này: đảo Trường Sa
(13.4.1930), đảo An Bang (7.04.1933), đảo Ba Bình (10.4.1933),
nhóm Hai Đảo (10.4.1933), Loai Tạ (11.4.1933), Thị Tứ
(12.4.1933) cùng các đảo nhỏ xung quanh các đảo nói trên.
Việc chiếm cứ này được thông báo trong Công báo của
Cộng Hòa Pháp ngày 26 tháng 7 năm 1933 và Công báo Đông
Dương ngày 25 tháng 9 năm 1933. Việc chiếm cứ này không
gặp bất cứ sự phản đối nào từ phía Trung Quốc,
Phillippines, Hà Lan (khi đó đang chiếm Brunei) hay Mỹ. Nước
Anh yêu cầu giải thích và tuyên bố thỏa mãn với hồi
đáp của Pháp.
Ngày 2
tháng12 năm1933, Thống đốc Nam Kỳ J. Krautheimer sát nhập
quần đảo Trường Sa vào tỉnh Bà Rịa.
Ngày 30
tháng 3 năm1938 hoàng đế Bảo Đại đã ra chiếu chỉ sát
nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh Thừa Thiên. Ngày 15
tháng 6 năm 1938, Toàn quyền Đông Dương J. Brévié ra nghị
định thành lập một đơn vị hành chính tại Hoàng Sa.
Sau đó chính phủ Pháp tiến hành chiếm cứ thực sự
toàn bộ quần đảo. Một đội quân cảnh vệ được cử
đến đồn trú thường xuyên tại đây. Vào năm 1938, bia
chủ quyền được dựng lên với dòng chữ “Cộng
Hòa Pháp – Vương quốc An Nam – Quần đảo Hoàng Sa,
1816 – đảo Hoàng Sa – 1938”. Một
hải đăng, một trạm khí tượng và một trạm vô tuyến
được đặt trên đảo Hoàng Sa.
Năm
1939, Nhật chiếm đóng Trường Sa, đổi tên quần đảo
thành Shinnan Gunto (Tân Nam Quần đảo) và đặt chúng dưới
quyền tài phán của Cao Hùng (Đài Loan). Tháng 4 năm1939,
Pháp gửi công hàm phản đối các hành động quân sự
của Nhật và khẳng định quần đảo này là một phần
lãnh thổ của An Nam.
Ngay
sau khi Nhật đầu hàng năm 1945, chính quyền Pháp đã lập
tức khôi phục lại sự có mặt của mình trên hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 6 năm 1946, một phân
đội của Pháp đã đổ bộ lên Hoàng Sa để chiếm lại
quần đảo. Tháng 10 năm 1946, chiến hạm của Pháp mang
tên “Chevreud” đã đến Trường Sa và đặt bia chủ
quyền trên đảo Ba Bình.
Cuối
năm 1946, khi Trung Hoa Dân Quốc cử quân đội đến chiếm
đóng đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa), Pháp đã phản
đối và yêu cầu họ rời khỏi quần đảo.
Như vậy,
với tư cách nhà nước bảo hộ đại diện cho quyền lợi
của An Nam, chính phủ Pháp không hề từ bỏ mà vẫn thực
thi chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa một
các liên tục. Đối với Trường Sa, Pháp coi đây là lãnh
thổ vô chủ và đã chiếm cứ thực sự trước khi các
nước khác có mặt trên quần đảo này mà không gặp sự
phản đối đáng kể nào từ phía các quốc gia khác.
3. Chủ
quyền của Việt Nam tiếp tục được thực thi và bảo
vệ sau khi Pháp rời khỏi Đông Dương
Ngày
14 tháng 10 năm 1950, chính phủ Pháp chính thức trao lại
cho chính quyền Bảo Đại việc quản lý hai quần đảo.
Trong phiên
họp thứ 7 tại Hội nghị hòa bình San Francisco vào ngày
7.9.1951, đại diện Quốc Gia Việt Nam (chính quyền Bảo
Đại) là thủ tướng kiêm bộ trưởng ngoại giao Trần
Văn Hữu đã chính thức tuyên bố khẳng định chủ quyền
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Không có
một phản đối hay bảo lưu nào từ phía 51 nước tham dự
Hội nghị. Cả Trung Quốc và Đài Loan đều vắng mặt
trong hội nghị này.
Tuy nhiên, Trung Quốc bảo lưu yêu sách của họ đối với
các quần đảo qua tuyên bố của bộ trưởng ngoại giao
Chu Ân Lai ngày 15 tháng 8 năm 1951.
Sau Hiệp
ước Geneva năm 1954, hai quần đảo được Việt Nam Cộng
Hòa kiểm soát. Ngày 22 tháng 8 năm1956, sau khi quân Pháp
rút đi, chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đã thiết lập
ngay lập tức sự kiểm soát của họ tại Hoàng Sa và
Trường Sa và đối phó với Trung Quốc trong tranh chấp
này.
Chính quyền Việt Nam Cộng Hòa, với tư cách người thừa
kế danh nghĩa pháp lý cùng các quyền và yêu sách của
Pháp, đã liên tục tiến hành quản lý hành chính, khảo
sát, khai thác và bảo vệ hai quần đảo bằng các hành
động như: cắm cờ, lập bia chủ quyền trên quần đảo
Trường Sa (8.1956), sát nhập quần đảo Hoàng Sa vào tỉnh
Quảng Nam (7.1961), khẳng định chủ quyền đối với hai
quần đảo bằng thông cáo của Bộ Ngoại Giao ngày 15
tháng 7 năm 1971, sát nhập quần đảo Trường Sa vào tỉnh
Phước Tuy (9.1973), cấp phép cho khai thác phân chim, bắt
giữ nhóm quân Trung Quốc giả dạng ngư dân xâm chiếm
nhóm đảo phía Tây quần đảo Hoàng Sa (2.1959). Tháng 1
năm 1974, khi Trung Quốc dùng vũ lực chiếm toàn bộ các
đảo Hoàng Sa, chính quyền đã phản ứng mạnh mẽ và
tận dụng mọi cơ hội để khẳng định chủ quyền của
mình như: gửi thư cho chủ tịch Hội đồng Bảo An và
Tổng thư ký Liên Hợp Quốc đề nghị can thiệp, tuyên
bố khẳng định chủ quyền tại Hội nghị Ủy ban Kinh
tế Viễn Đông (3.1974) và tại Hội nghị lần thứ ba của
Liên Hợp Quốc về Luật Biển tại Caracas (7.1974), công
bố sách trắng về Hoàng Sa và Trường Sa (2.1975).
4. Nhà
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ra đời ngày
2 tháng 7 năm 1976 là bên kế thừa hợp pháp của hai nhà
nước trước đó, tiếp tục sở hữu danh nghĩa pháp lý
đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cho đến
nay.
Thực thi
chủ quyền của mình, Việt Nam đã thành lập
huyện Hoàng Sa trực thuộc tỉnh
Quảng Nam – Đà Nẵng (12.1982), lập thị trấn Trường
Sa bao gồm quần đảo Trường Sa, thị xã Cam Ranh và các
đảo phụ cận (4.2007), liên tục có quân đồn trú tại
quần đảo Trường Sa. Các lãnh đạo của Việt Nam tiến
hành các chuyến đi thăm và khảo sát quần đảo Trường
Sa nhằm khẳng định chủ quyền như: các chuyến thăm của
Bộ trưởng Quốc phòng Lê Đức Anh, chủ tịch Hội đồng
Nhà nước Nguyễn Quyết, tổng tham mưu trưởng Quân đội
Nhân dân Việt Nam Đoàn Khuê vào tháng 5.1988, chuyến thăm
của ủy viên Bộ Chính trị Phạm Thế Duyệt vào tháng
4.1998.
II. Luận
thuyết của Trung Quốc và Đài Loan
Do Trung
Quốc và Đài Loan sử dụng các luận cứ tương tự cho
yêu sách của mình đối với hai quần đảo, chúng tôi sẽ
trình bày chung các luận cứ này trong phần dưới đây.
1. Luận
thuyết của Trung Quốc dựa trên quyền phát hiện đầu
tiên và chiếm cứ hữu hiệu đối với lãnh thổ vô chủ
(terra nullius)
Trung Quốc
khẳng định họ đã phát hiện ra các quần đảo sớm
nhất, từ thời Hán Vũ Đế (thế kỷ II trước CN).
Tuy nhiên, để chứng minh cho luận cứ này, Trung Quốc đưa
ra các tài liệu không phải là chính sử được viết bởi
các cơ quan nhà nước. Theo Nguyễn Hồng Thao, “phần lớn
chúng là những ghi chép về các chuyến
đi, các chuyên khảo và các sách hàng hải thể hiện
những nhận biết địa lý của người xưa liên quan không
chỉ tới lãnh thổ Trung Quốc mà còn tới lãnh thổ của
các nước khác.”
Hơn nữa, phần lớn các tài liệu nói đến các quần đảo
với những tên gọi rất khác nhau, làm cho mọi xác minh
không được chắc chắn.
Mặt khác,
tác giả Phạm Hoàng Quân cho biết, theo Cổ
kim đồ thư tập thành, bộ bách khoa
toàn thư do Thanh triều tổ chức biên soạn, hoàn thành
năm 1706, trong phần Chức Phương điển (sách điển chế
về địa đồ các đơn vị hành chính), các địa đồ
như Chức Phương tổng bộ đồ (địa đồ số 1), Quảng
Đông cương vực đồ (địa đồ số 157), Quỳnh Châu phủ
cương vực đồ (địa đồ số 167) đều không ghi nhận
các quần đảo xa hơn đảo Hải Nam ngày nay. Theo Quảng
Đông thông chí vẽ đời Gia Tĩnh (1522-1566) thì phần hải
đảo cũng chỉ đến Quỳnh Châu (tức Hải Nam).
Trung Quốc
cũng sử dụng những bằng chứng về khảo cổ và việc
tìm thấy vết tích tiền và đồ cổ từ thời Vương
Mạng để khẳng định sự có mặt của ngư dân Trung
Quốc trên các quần đảo. Tuy nhiên, các hoạt động khai
thác của ngư dân Trung Quốc là các hoạt động tư nhân,
không mang lại hiệu lực pháp lý của quyền chiếm cứ
hiệu quả mà luật quốc tế đòi hỏi.
Để chứng
minh việc thực thi chủ quyền trên các quần đảo từ
lâu đời, Trung Quốc đưa ra các sự kiện sau:
các
cuộc tuần tra quân sự đến vùng biển quần đảo
Hoàng Sa từ thời nhà Tống (960-1127). Khẳng định này
dựa trên cơ sở Vũ Kinh tổng yếu
(chương trình chung về quân sự có
lời đề tựa của vua Tống Nhân Tông).
Theo Monique Chemillier-Gendreau, tài liệu này chỉ cho thấy
có các đó là các hành trình thăm dò địa lý tới tận
Ấn Đô Dương, và xác nhận Trung Quốc có biết đến
quần đảo Hoàng Sa nhưng không minh chứng một sự chiếm
hữu nào.
Vào
thế kỷ XIII, Hoàng đế nhà Nguyên ra lệnh cho nhà thiên
văn học Quách Từ Kính thực hiện các quan trắc thiên
văn, trong đó có một số quan trắc từ Hoàng Sa. Tuy
nhiên, các quan trắc này được thực hiện một phần
trong lãnh thổ Trung Quốc, một phần ngoài lãnh thổ,
mang tính chất nghiên cứu khoa học, không đủ để tạo
nên danh nghĩa chủ quyền.
Vào
khoảng các năm 1710-1712, phó tướng thủy quân Quảng
Đông là Ngô Thăng đã thực hiện một cuộc tuần biển
đến Hoàng Sa. Tuy nhiên, theo Monique Chemillier-Gendreau, xem
xét trên bản đồ thì lộ trình đi tuần chỉ là một
con đường vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là
quần đảo Hoàng Sa.
Năm
1883, khi tàu của Đức thực hiện nghiên cứu khoa học
tại quần đảo Trường Sa, chính quyền Quảng Đông đã
phản đối. Nhưng khi danh nghĩa của một nhà nước chưa
được xác lập vững chắc và lâu dài, việc phản đối
này chỉ mang tính chất ngoại giao và không có giá trị
pháp lý.
Các bằng
chứng lịch sử của Trung Quốc về quyền phát hiện và
chiếm cứ hiệu quả hai quần đảo rõ ràng là rất ít
ỏi, không vững chắc và không đáp ứng được đầy đủ
các điều kiện của luật quốc tế. “Chúng không chứng
minh được một sự chiếm cứ thông thường, một sự
quản lý hành chính hữu hiệu sự kiểm soát chủ quyền”.
Cân nhắc
các luận cứ lịch sử của Việt Nam và Trung Quốc về
quyền phát hiện đầu tiên và chiếm cứ hiệu quả, giáo
sư người Pháp Yves Lacoste cho rằng: “dù sao đi nữa,
luận cứ của Việt Nam cũng mạnh mẽ hơn luận cứ của
Trung Quốc.”
2. Các
luận cứ của Trung Quốc trong thời kỳ từ đầu thế kỷ
XX đến 1945
Đầu thế
kỷ XX, Trung Quốc mới thực sự quan tâm và có những nỗ
lực đầu tiên để chiếm cứ quần đảo Hoàng Sa. Vào
năm 1909, đô đốc Trung Quốc là Lý Chuẩn thực hiện một
cuộc đổ bộ nhỏ (trong 24 giờ) lên quần đảo này. Họ
kéo cờ và bắn súng để biểu thị chủ quyền của
Trung Quốc.
(Sự kiện này cho thấy sự mâu thuẫn trong lập luận của
Trung Quốc. Nếu quần đảo Hoàng Sa đã được Trung Quốc
chiếm cứ thực sự từ lâu đời, thì tại sao phái đoàn
của Lý Chuẩn lại không biết điều này và hành xử như
thể lần đầu tiên phát hiện ra quần đảo?). Nước
Pháp đại diện cho An Nam không có phản ứng gì trước
cuộc đổ bộ này vì họ cho rằng đó chỉ là một nghi
thức hải quân nhân dịp chuyến thám sát.
Năm 1921,
chính quyền dân sự Quảng Đông sát nhập hành chính các
đảo Hoàng Sa vào Nhai huyện. Sự kiện này không gây ra
phản ứng gì của các nước vì khi đó chính quyền Quảng
Đông không được cả chính phủ trung ương Trung Quốc
lẫn các cường quốc công nhận.
Năm 1937,
trước sự phản đối của Pháp, Nhật chiếm các đảo
“nằm ngoài khơi Đông Dương”, đổi tên thành Shinnan
Gunto (Tân Nam Quần Đảo) và đặt chúng dưới quyền tài
phán của Cao Hùng (Đài Loan).
Trong suốt
thời gian Thế chiến II, các quần đảo bị Nhật chiếm
đóng.
Như vậy,
cho đến khi Thế chiến II kết thúc vào năm 1945, ngoài nỗ
lực ban đầu trong việc biểu thị chủ quyền ở quần
đảo Hoàng Sa, Trung Quốc vẫn không thể hiện được một
sự chiếm cứ thực sự, liên tục hay sự quản lý hành
chính hiệu quả trên các đảo. Đối với quần đảo
Trường Sa, Trung Quốc hoàn toàn không hề có một ảnh
hưởng nào.
3.
Thời kỳ sau 1945
Sau khi đầu
hàng vào năm 1945, Nhật Bản rút khỏi Đông Dương và các
quần đảo. Sau khi Pháp khôi phục lại sự có mặt của
mình tại Hoàng Sa vào tháng 6 năm 1946, quân đội Trung Hoa
Dân Quốc đổ bộ lên đảo Phú Lâm (quần đảo Hoàng
Sa) vào tháng 1 năm 1947. Pháp lập tức phản đối việc
chiếm hữu trái phép này của Trung Quốc và cử một phân
đội ra quần đảo Hoàng Sa, lập đồn binh và xây trạm
khí tượng. Các trạm khí tượng này hoạt động trong
suốt 26 năm cho đến khi Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chiếm
đóng quân sự vào năm 1974.
Cuối năm
1946, Trung Hoa Dân Quốc cử quân đội đến chiếm đóng
đảo Ba Bình (quần đảo Trường Sa), sau khi Pháp đặt
bia chủ quyền.
Tháng 10
năm 1949, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa ra đời. Tháng 5 năm
1950, Quân đội Quốc dân Đảng phải rời khỏi các đảo
Phú Lâm (quần đảo Hoàng Sa) và Ba Bình (quần đảo
Trường Sa). Các trại đồn trú của Pháp vẫn được
tiếp tục duy trì ở Hoàng Sa.
Tháng 4
năm 1956, quân đội viễn chinh Pháp rút khỏi Đông Dương,
chính quyền Việt Nam Cộng Hòa đưa quân đến thay thế
các đơn vị của Pháp tại Hoàng Sa. Nhưng khi đó chính
quyền Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã kín đáo cho quân đổ
bộ chiếm phần phía Đông của quần đảo Hoàng Sa (cụm
An Vĩnh).
Ngày 4
tháng 9 năm 1958, Trung Quốc ra tuyên bố về hải phận 12
hải lý, áp dụng cho cả các quần đảo Hoàng Sa và
Trường Sa.
Ngày 19
tháng 1 năm 1974, Trung Quốc dùng vũ lực chiếm toàn bộ
quần đảo Hoàng Sa.
Đối với
quần đảo Trường Sa, theo Jan Rowiński, cho đến thời
điểm này (tháng 1 năm 1974) „Trung
Quốc không có khả năng gây ảnh hưởng đối với khu
vực quần đảo Trường Sa, chứ chưa nói gì đến chuyện
kiểm soát nó.”
Tháng 2
năm 1988, Trung Quốc gửi quân đội đến một số đảo
trên quần đảo Trường Sa.
Tháng 3
năm 1988, Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm 6 đảo của
Việt Nam trên quần đảo Trường Sa. Trung Quốc là quốc
gia duy nhất yêu sách chủ quyền đối với toàn bộ quần
đảo Trường Sa nhưng trên thực tế không kiểm soát bất
cứ đảo nào cho mãi đến tận năm 1988.
Tháng 4
năm 1988, Trung Quốc thành lập tỉnh thứ 33 bao gồm đảo
Hải Nam và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Tháng 5
năm 1989, Trung Quốc chiếm thêm một đảo nhỏ trên quần
đảo Trường Sa.
Tháng 2
năm 1995, Trung Quốc chiếm đá Vành Khăn, một đảo đá
nhỏ của Phillippines trên quần đảo Trường Sa.
Có thể
thấy phương pháp chủ yếu của Trung Quốc là dùng vũ
lực để chiếm hữu các đảo. Tuy nhiên, theo luật quốc
tế, từ đầu thế kỷ XX việc dùng vũ lực để chinh
phục một lãnh thổ đã bị lên án và không được chấp
nhận. Nghị quyết của Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc
ngày 24 tháng 10 năm 1970 cũng đã ghi rõ: “Lãnh
thổ của một quốc gia không thể là đối tượng của
một sự chiếm đóng quân sự, kết quả của việc sử
dụng vũ lực trái với các điều khoản của Hiến chương
Liên hợp quốc. Lãnh thổ của một quốc gia không thể
là một đối tượng thụ đắc bởi một quốc gia khác
do đe doạ sử dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lưc. Bất
kỳ sự thụ đắc lãnh thổ nào bằng sự đe dọa sử
dụng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực đều là bất hợp
pháp.” Do đó, các hành động dùng vũ lực trái ngược
với luật quốc tế của Trung Quốc không thể mang lại
danh nghĩa pháp lý cho nước này đối với các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa.
4. Các
tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và giá trị
pháp lý:
Trung Quốc
luôn lập luận rằng Việt Nam đã thừa nhận chủ quyền
của họ đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
dựa trên các tuyên bố của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(VNDCCH) trong thời gian chiến tranh 1954-1975. Các tuyên bố
đó là:
Ngày
15 tháng 6 năm 1956 thứ
trưởng Ngoại giao VNDCCH Ung Văn Khiêm đã nói với
thường vụ viên của đại sứ quán Trung Quốc tại Hà
Nội rằng các quần đảo này về mặt lịch sử là một
bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, Trung Quốc
chưa bao giờ đưa ra được biên bản cuộc họp mà họ
cho rằng trong đó Ung Văn Khiêm đã nói điều trên.
Công
hàm của Thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ngày 14 tháng
9 năm 1958 tán thành tuyên bố về hải phận 12 hải lý
của Trung Quốc mà không có bảo lưu gì đối với các
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Ngày
9 tháng 5 năm1965, khi Mỹ leo thang chiến tranh tại Việt
Nam và ấn định những vùng chiến thuật, Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa đã tuyên bố Hoàng Sa thuộc chủ quyền
của Trung Quốc.
Tuy nhiên,
các tuyên bố của VNDCCH có khiến cho nước Việt Nam
thống nhất sau 1975 mất chủ quyền đối với hai quần
đảo Hoàng Sa và Trường Sa hay không đòi hỏi những
nghiên cứu sâu hơn về luật quốc tế. Trong bài viết
ngắn này, chúng tôi sẽ trình bày tóm tắt quan điểm của
mình.
Trong
thời gian chiến tranh 1954-1975 có hai quốc gia Việt Nam
đồng thời tồn tại là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
(VNDCCH) ở miền Bắc và Việt Nam Cộng hòa (VNCH) ở miền
Nam. Đây cũng là quan điểm của nhiều luật gia quốc tế
như James Crawford, Robert
Jennings, Nguyễn Quốc Định, Jules Basdevant, Paul Reuter,
Louis Henkin, Grigory Tunkin.
Sau Hiệp ước Geneve năm 1954, dựa theo nhận thức và thực
tế quản lý của hai quốc gia, quốc gia kế thừa chủ
quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là VNCH. Trên
thực tế, như đã nêu ở phần trên, VNCH đã liên tục
kiểm soát, quản lý hành chính và khẳng định chủ quyền
của mình trên hai quần đảo cho đến tận khi bị Trung
Quốc dùng vũ lực đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vào
năm 1974. Việc quản lý quần đảo Trường Sa vẫn tiếp
tục được duy trì đến thời điểm 30 tháng 4 năm 1975.
Công hàm
của thủ tướng VNDCCH Phạm Văn Đồng ngày 14 tháng 9 năm
1958 cũng như các tuyên bố khác của VNDCCH không ảnh
hưởng đến danh nghĩa chủ quyền mà VNCH duy trì. Các
hành vi của VNDCCH cùng lắm chỉ có thể gây ra các ràng
buộc và hiệu quả pháp lý cho chính mình mà thôi. Vậy
các ràng buộc và hiệu quả pháp lý đó có thể là gì?
Các tuyên
bố của VNDCCH là hành vi đơn phương. Theo luật quốc tế,
một hành vi đơn phương hay một lời hứa cần có những
điều kiện trước khi có thể gây ra nghĩa vụ ràng buộc.
Các điều kiện chính là: a) cần xét đến bối cảnh của
hành vi tuyên bố đó; b) bên có tuyên bố cần thể hiện
rõ ràng ý chí muốn bị ràng buộc bởi tuyên bố của
mình; c) bên kiện quốc gia tuyên bố phải có hành động
dựa vào tuyên bố đó và phải chứng minh mình đã bị
thiệt hại do tuyên bố đó, hoặc quốc gia tuyên bố đã
hưởng lợi từ tuyên bố này. Ngoài ra, nhiều bản án
của Tòa án Công lý Quốc tế còn đòi hỏi các tuyên bố
này phải mang tính chất liên tục và trường kỳ.
Có thể
dễ dàng thấy rằng các tuyên bố của VNDCCH thiếu hầu
hết các điều kiện để có thể gây ra nghĩa vụ ràng
buộc. Trung Quốc không có hành động nào dựa vào tuyên
bố của VNDCCH và VNDCCH cũng không được hưởng lợi gì
từ các tuyên bố đó.
Như vậy,
sau năm 1975, nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam,
người kế thừa hai nhà nước VNCH và VNDCCH, đã kế thừa
chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa từ VNCH cùng các tuyên bố đơn phương không mang tính
chất ràng buộc và hiệu quả pháp lý từ VNDCCH, và hoàn
toàn có đầy đủ cơ sở để khẳng định chủ quyền
hợp pháp của mình trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa.
III. Luận
thuyết của các nước khác
1) Luận
thuyết của Phillippines
Philippinnes
có yêu sách đối với khoảng 60 đảo, đá và bãi cạn
thuộc quần đảo Trường Sa.
Yêu sách đầu tiên được Thomas Cloma, một công dân
Phillippines, đưa ra vào năm
1947 khi ông tuyên bố phát hiện ra một nhóm đảo, đá
nằm cách bờ Tây đảo Palawan 300 hải lý.
Ngày
17 tháng 5 năm 1951, tổng thống Philippines tuyên bố các
đảo của quần đảo Trường Sa phải thuộc về lãnh thổ
gần nhất là Philippines. Tuyên bố này đã bị các nước
có liên quan phản đối.
Mãi
đến tháng 3 năm 1956, Thomas Cloma mới tiếp tục việc
“phát hiện” nhóm đảo này. Ông cử một nhóm 40 thủy
thủ đổ bộ lên các đảo của quần đảo Trường Sa
với mục đích tiến hành chiếm hữu chính thức. Họ cắm
cờ Philippines lên một số đảo, trong đó có đảo Ba
Bình (Itu Aba).
Ngày 11 tháng 5 năm 1956, họ tuyên bố các đảo họ đã
chiếm đóng được đặt tên là Kalayaan (Đất Tự do),
còn Thomas Cloma tự phong mình là Chủ tịch Hội đồng Tối
cao Nhà nước Kalayaan.
Tuyên bố này đã bị các nước liên quan phản đối.
Ngày
15 tháng 5 năm 1956, Thomas Cloma gửi thư cho bộ trưởng
ngoại giao của Cộng hòa Philippines thông báo về việc
chiếm giữ vùng lãnh thổ rộng 64.976 dặm vuông ở phía
Tây Palawan, nằm ngoài các vùng nước của Philippines và
không thuộc quyền tài phán của bất cứ nước nào và
yêu sách chiếm hữu vùng lãnh thổ này dựa trên quyền
phát hiện và chiếm đóng, đồng thời gửi kèm theo bản
đồ. Tuy tên của các đảo bị thay đổi hoàn toàn, nhưng
bản đồ cho thấy Kalayaan bao gồm phần lớn các đảo
thuộc quần đảo Trường Sa.
Trong
họp báo ngày 19 tháng 5 năm 1956, bộ trưởng ngoại giao
Philippines khẳng định rằng nhóm đảo Trường Sa trong đó
có đảo Ba Bình và đảo Trường Sa phải thuộc chủ
quyền Philippines vì chúng nằm gần Philippines nhất. Sài
Gòn, Bắc Kinh và Đài Loan đều phản đối tuyên bố này.
Đài Loan có ý định cử thủy quân đến Trường Sa.
Manila lập tức thông báo với Đài Loan và Việt Nam rằng
Philippines chưa có yêu sách chính thức về chủ quyền đối
với vùng lãnh thổ này.
Ngày
6 tháng 7 năm 1956, Thomas Cloma lại gửi thư yêu cầu chính
phủ Philippines cho Kalayaan được hưởng chế độ bảo
hộ. Trong công văn trả lời T. Cloma, bộ trưởng ngoại
giao Philippines cho rằng ngoài nhóm 7 đảo mà quốc tế gọi
là Trường Sa (Spratly), các đảo khác đều là lãnh thổ
vô chủ (terra nulius), do đó mọi công dân Philippines cũng
như công dân các nước khác đều có quyền tự do khai
thác kinh tế và định cư.
Đáp
trả “sự kiện T. Cloma”, Việt Nam đã cử tàu tuần
tra đến quần đảo Trường Sa vào tháng 8 năm 1956.
Ngày
1 tháng 10 năm 1956 xảy ra cuộc đụng độ đầu tiên giữa
hải quân Đài Loan và nhóm người của T. Cloma ở North
Danger Shoal. Người của T. Cloma bị tịch thu hết vũ khí.
Chính phủ Philippines hoàn toàn không can thiệp.
Vào
thời kỳ 1970-1971, các đơn vị thủy quân Philippines theo
lệnh của tổng thống F. Marcos đã chiếm một số đảo
của Trường Sa, trong đó có đảo Thị Tứ, đảo Vĩnh
Viễn và South Rock. Philippines cũng tổ chức tuần tra trên
một loạt đảo và đá nhỏ ở phía Đông Bắc quần
đảo.
Năm 1971, Phillipines một lần nữa cố chiếm đảo Ba Bình
nhưng thất bại. Chính quyền Phillippines phản đối sự
chiếm đóng của Đài Loan với các lý do: a) Phillippines có
danh nghĩa chủ quyền dựa trên sự phát hiện của
T.Cloma; b) Trung Quốc chiếm đóng de
facto một số
đảo nằm dưới sự kiểm soát của các nước đồng
minh mà không cho các nước này được biết; c) nhóm đảo
Trường Sa nằm trong vùng nước quần đảo của
Phillippines.
Cùng với sự phản đối, Phillippines tăng cường quân số
trên các đảo lên 1000 người. Một sân bay đã được
xây dựng trên đảo Thị Tứ.
Năm
1974 Thomas Cloma chuyển giao “chủ quyền” Kalayaan cho
chính phủ Philippines. Đến thời điểm này, Philippines
kiểm soát 4 đảo.
Năm
1978, Philippines đặt quân đội trên 7 đảo của Trường
Sa. Ngày 11 tháng 6 năm 1978, tổng thống Philippines sát nhập
7 đảo này vào lãnh thổ Philippines bằng sắc lệnh số
1596,
sắc lệnh này đồng thời khẳng định các đảo này “về
mặt pháp lý không thuộc bất cứ quốc gia hay dân tộc
nào, giờ đây phải thuộc về Phillippines và nằm dưới
quyền tài phán của Phillippines nhờ sự chiếm cứ và
quản lý hiệu quả theo đúng luật quốc tế”.
Sắc lệnh cũng quy định vùng đặc quyền kinh tế 200 hải
lý cho các đảo này.
Ngày
14 tháng 9 năm 1979, tổng thống Philippines tuyên bố rõ
Philippines sẽ tiếp tục yêu sách chủ quyền đối với 7
đảo họ đang chiếm đóng chứ không phải toàn bộ quần
đảo Trường Sa. Trong cuộc họp báo này, tổng thống
Phillippines nhắc lại nhóm 7 đảo này là vùng lãnh thổ
chưa có người chiếm đóng, chưa được biết đến và
chưa có người ở, thậm chí chưa được đánh dấu trên
các bản đồ trước Thế chiến II, và Phillippines chiếm
cứ chúng như lãnh thổ vô chủ (terra
nullius).
Ngày
10 tháng 3 năm 2009, Tổng thống Philippines ký ban hành Luật
Cộng hoà 9522 về đường cơ sở, đưa phần lớn các đảo
Trường Sa vào quy chế đảo của Philippines. Hành động
này của Phillippines lập tức bị Việt Nam và Trung Quốc
phản đối.
Luận
thuyết của Phillippines không vững vàng ở chỗ nước này
cho rằng các đảo mà mình chiếm giữ là lãnh thổ vô
chủ và chưa được biết đến, nhưng trên thực tế,
chúng thuộc quần đảo Trường Sa. Ngay cả khi bỏ qua các
giai đoạn lịch sử xa xưa, quần đảo này đã được
Pháp chiếm cứ hữu hiệu từ những năm 1930 (quân đội
Pháp có mặt trên đảo Thị Tứ từ tháng 4 năm 1933) và
sau đó trao lại cho Việt Nam khi Pháp rời khỏi Đông
Dương mà không gặp bất cứ sự phản đối nào từ phía
các nước, trong đó có Phillippines. Luật quốc tế cũng
không quy định một lãnh thổ phải thuộc về một quốc
gia chỉ vì nằm gần quốc gia đó nhất. Ngoài ra, việc
chiếm đóng và các yêu sách của Phillippines đối với
nhóm đảo thuộc quần đảo Trường Sa ngay từ ban đầu
luôn gặp sự phản đối từ phía các nước khác có liên
quan, do đó khó lòng có thể nói đến một sự chiếm cứ
hiệu quả và không có tranh chấp theo đúng các nguyên tắc
của luật quốc tế.
2)
Luận thuyết của Malaysia
Năm
1978, Malaysia đưa ra yêu sách chủ quyền đối với các
đảo An Bang, Đá Kỳ Vân và đá Công Đo dựa trên cơ sở
các quy định của luật quốc tế về thềm lục địa.
Năm 1979, Malaysia công bố bản đồ trong đó
một số đảo của Trường Sa được đánh dấu là lãnh
thổ Malaysia.
Tháng
6 năm 1983, Malaysia chiếm đóng quân sự đảo
đầu tiên - Đá Hoa Lau - trong khu vực yêu sách. Tháng 9
năm 1983, Malaysia chính thức tuyên bố nước này quyết
định chiếm cứ bãi san hô ngầm James Schoal, Đá Hoa Lau,
bãi Kiêu Ngựa, Đá Kỳ Vân và khẳng định các đảo này
nằm trong vùng được gọi là “vùng kinh tế biển” của
Malaysia.
Tháng 12 năm 1986, quân đội Malaysia chiếm đảo Đá Kỳ
Vân và Kiêu Ngựa.
Tháng
6 năm1999, Malaysia mở rộng chiếm đóng ra Đá Én Ca và
bãi Thám Hiểm, nâng tổng số các đảo bãi chiếm đóng
của mình ở quần đảo Trường Sa lên bảy đảo, bãi.
Luận
thuyết của Malaysia dựa trên cơ sở các quy định của
luật quốc tế về thềm lục địa. Tuy nhiên, điều 76
Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển ghi rõ: “Thềm
lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm đáy
biển và lòng
đất dưới đáy biển
bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó, trên toàn bộ phần
kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc
gia đó cho đến bờ ngoài của rìa lục địa, hoặc đến
cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
200 hải lý, khi bờ ngoài của rìa lục địa của quốc
gia đó ở khoảng cách gần hơn”, hoàn
toàn không liên quan đến các đảo, đá nổi lên mặt
biển trong
vùng thềm lục địa. Luận thuyết của Malaysia hoàn toàn
không có cơ sở pháp lý. Yêu sách của Malaysia về chủ
quyền cũng không có một cơ sở lịch sử nào.
3)
Luận thuyết của Brunei
Brunei
chỉ yêu sách chủ quyền đối với đảo Louisa Reef, với
luận thuyết đảo này nằm trong vùng
đặc quyền kinh tế
của Brunei. Tuy nhiên, Công ước LHQ về Luật Biển 1982
chỉ công nhận
quốc gia ven bờ có “chủ quyền về việc thăm dò khai
thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên,
sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên
đáy biển, của đáy biển và lòng đất dưới đáy biển,
cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và
khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản
xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió”, quyền
tài phán trong việc lắp đặt và sử dụng các đảo nhân
tạo, các thiết bị về công trình, quyền tài phán trong
việc nghiên cứu khoa học biển cũng như bảo vệ và gìn
giữ môi trường biển (điều 56). Việc yêu sách chủ
quyền đối với các đảo chỉ vì chúng nằm trong vùng
đặc quyền kinh tế là một diễn giải sai lệch các quy
định của Công ước. Do đó, luận thuyết của Brunei,
tương tự như trường hợp Malaysia, là thiếu thuyết phục
và không có cơ sở.
Ở
đây, một câu hỏi có thể nảy sinh là: Louisa Reef có
phải là một đảo theo qui định của luật quốc tế hay
không? Bởi một quốc gia chỉ có thể tuyên bố chủ
quyền và thụ đắc chủ quyền đối với đảo (vùng đất
tự nhiên có nước bao bọc, khi thủy triều lên vẫn nổi
trên mặt nước). Nếu Louisa Reef là một bãi cạn nửa
nổi nửa chìm, Brunei và các nước khác đều không thể
yêu sách chủ quyền.
Khi đó nó sẽ là một phần vùng đặc quyền kinh tế mà
Brunei có thể có các quyền giới hạn như đã nêu trên.
Trong trường hợp này, một vấn đề nữa sẽ phải đặt
ra là vùng đặc quyền kinh tế của Brunei có chồng lấn
với vùng đặc quyền kinh tế mà Việt Nam và Malaysia đòi
hỏi hay không.
Kết luận
Những
phân tích trên đây cho thấy trong tranh chấp các quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa, dưới góc độ luật pháp quốc
tế, các lý lẽ của Việt Nam là mạnh mẽ nhất. Tuy
nhiên, thực tế tranh chấp dai dẳng và phức tạp cũng
như ý muốn của các bên khiến việc giải quyết tranh
chấp bằng con đường pháp lý hiện nay rất khó khăn.
Hơn nữa, tranh chấp các quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa, vì tính chất phức tạp của nó, đòi hỏi một giải
pháp tổng thể với các yếu tố pháp lý, lịch sử,
chính trị, kinh tế. Mặc dù vậy, theo chúng tôi, yếu tố
pháp lý vẫn là yếu tố quan trọng nhất. Việc giải
quyết các tranh chấp trên Biển Đông cần rất nhiều nỗ
lực và thiện chí của các bên liên quan, đặc biệt là
Trung Quốc, nước luôn phản đối việc đưa tranh chấp
Hoàng Sa và Trường Sa ra trước tòa án quốc tế bất
chấp nhiều lần đề nghị của Việt Nam.
-------
*Thạc
sĩ ngành Công pháp quốc tế, Đại học Warszawa
Tác giả
xin trân trọng cảm ơn các góp ý của TS. Dương Danh Huy,
TS. Nguyễn Đức Hùng và TS. Lê Vĩnh Trương cho bài viết
này.
Tài
liệu tham khảo: