Tôi
không thấy ở bất cứ đâu Freud vượt lên được tâm
lý học của chính mình, và tôi chẳng rõ bằng cách nào
ông muốn giải thoát những người bệnh khỏi sự đau
đớn mà bản thân ông, như một bác sỹ, cũng đang phải
chịu đựng. (Carl Gustav
Jung)
Tôi
không còn nhớ rõ mình đã bắt gặp văn bản ấy như thế
nào. Có lẽ đó là vào thời gian tôi viết tiểu luận về
Akrópolis, do công việc rất chật vật nên như thường
lệ, tôi trốn vào thư sách, đọc các tiểu luận, các
bài viết, bài báo rải rác trong các tạp chí khảo cổ
học chuyên ngành và lập các ghi chép về chúng, dẫu lòng
vẫn hồ nghi chẳng biết chúng có ích lợi gì không. Rõ
ràng là tôi đã tự dối mình. Như thể tôi muốn biện
minh rằng mình không vô công rồi nghề, rằng mình không
rơi vào trạng thái tinh thần kiệt quệ, bởi vậy tôi
làm một công việc thay thế, vô ích và chán ngán, với
hy vọng từ sự vô ích và chán ngán đó tia sáng cảm
hứng bất chợt lóe lên. Trong khi đó, mỗi ngăn kéo mục
lục chuyên đề trong các thư viện tôi viếng thăm đều
chứa hàng trăm tựa sách bằng các thứ tiếng khác nhau,
hồ như muốn nói: „Anh vất vả mà làm gì, mọi thứ
đều đã được viết ra, chẳng có gì để bổ sung trong
lĩnh vực này. Vai trò duy nhất mà anh có thể làm là vai
trò của người biên soạn”.
Chính
trong thời gian bất an và lúng túng này, tôi bắt gặp bức
thư Sigmund Freud gửi Romain Rolland nhân dịp sinh nhật lần
thứ 70 của ông. Bức thư, theo như tính chất của nó,
được dành để đưa vào cuốn sách lưu niệm mà bạn bè
thân thiết xuất bản nhằm bày tỏ lòng trân trọng với
nhà văn lớn.
Bỏ
qua hình thức thư tín của phần mở đầu và kết thúc,
có thể xem bức thư của Freud như một tiểu luận, và nó
càng thú vị hơn khi người khởi thảo môn phân tâm học
sử dụng phương pháp này với chính mình, hay nói chính
xác hơn, với một tình tiết của trải nghiệm bản thân.
Tình tiết này cách thời điểm viết thư hơn ba mươi năm
và nhìn bề ngoài thì hoàn toàn nhàm chán, nó xuất hiện
một cách dai dẳng và ngoan cố trong vùng ý thức – như
Freud thú nhận - mà chẳng có nguyên nhân hay lý do nào rõ
rệt.
Đó
là năm 1904, như vào mỗi cuối tháng tám đầu tháng chín
hàng năm, Freud và em trai quyết định nghỉ hè bên bờ
Địa Trung Hải. Nhưng lần này kỳ nghỉ của họ ngắn
hơn, nên họ thôi không du hành nước Ý như mọi khi, thay
vào đó họ đến Trieste, rồi từ đó định ra đảo
Corfu nghỉ vài ngày. Một người quen tình cờ gặp ở
Trieste khuyên họ không nên thực hiện dự định ấy. Vào
thời gian đó trên đảo rất nóng – anh ta nói – một
chuyến tham quan Athens sẽ dễ chịu hơn nhiều. Đi bằng
tàu thủy sẽ rất có lợi, vì còn dư ba ngày để thăm
thú thành phố.
Đề
nghị xem ra sáng suốt và hấp dẫn này – thật kỳ cục
– lại khiến tâm trạng hai anh em trở nên khá u ám. Họ
lang thang trong thành phố, không mấy dứt khoát, và thảo
luận về dự định đi Athens chẳng lấy gì làm sôi nổi,
họ chỉ nhìn thấy rặt những trở ngại. Nhưng tới giờ
văn phòng Lloyd mở cửa, họ vẫn xuất hiện bên quầy và
mua vé, như thể tạm quên đi trong chốc lát những khó
chịu vừa qua.
„Vào
buổi chiều hôm chúng tôi đến, khi đang ở Akropolis và
ngắm nhìn bao quát phong cảnh, đột nhiên một ý nghĩ kỳ
cục này chợt đến với tôi: „Vậy là tất cả những
điều này thực sự tồn tại, y như ta đã được học ở
trường”. Nhận xét đó không mấy đặc biệt, nhưng thể
hiện chính xác cảm nhận của tất cả những người lần
đầu đứng trước Colosseum, trước tượng thần Vệ nữ
thành Milo hay bức chân dung nàng Mona Lisa. Và Freud đưa ra
một thăm dò mang tính phân tích vào sâu trong trải nghiệm
và cảm nhận này, để chỉ ra rằng nó hoàn toàn không
thông thường như người ta tưởng.
Theo
người khởi thảo môn phân tâm học, ở đây xảy ra
trường hợp đặc biệt đồng tồn tại trong cùng một
tâm thức hai thái độ trái ngược và hai phản ứng hoàn
toàn khác nhau đối với thực tại nảy sinh từ chúng. Dĩ
nhiên đó không phải là một sự phân hóa bệnh lý của
cái tôi,
nhưng
trong cá nhân hình thành một khe nứt bất an và mối quan
hệ đơn giản giữa chủ thể và đối tượng trở nên
bị xáo trộn. Ta hãy xem xét kỹ hơn hiện tượng này.
Phản
ứng đặc trưng nảy sinh từ thái độ thứ nhất là sự
ngạc nhiên, rằng Akropolis đang được nhìn thấy kia thật
sự tồn tại, như thể trước đó sự hiện hữu thực
sự của nó vốn bị nghi ngờ; ngược lại, phản ứng
đặc thù của thái độ thứ hai là „ngạc nhiên vì sự
ngạc nhiên đó”, bởi vì hiện thực Akropolis chưa bao
giờ từng là đối tượng của hoài nghi.
Để
minh họa cho thái độ thứ nhất, Freud nói rằng có thể
so sánh nó, với đôi chút cường điệu, với phản ứng
của một người đang lướt trên hồ Loch Ness ở Scotland
thình lình nhìn thấy thân hình con quái vật nổi tiếng
bị kéo lên bờ, khi ấy anh ta buộc phải công nhận: nó
tồn tại thực sự, cái con quái vật biển mà ta chưa bao
giờ tin ấy. Thái độ thứ hai, ngược lại, gần với
chủ nghĩa hiện thực ngây thơ, chấp nhận vô điều kiện
chứng
thực của các giác quan, hoàn toàn mở ngỏ và không bị
xáo trộn bởi bất cứ phản chiếu nào của thích thú
hay kinh sợ.
Diễn giải tự nhiên nhất
của hai cảm giác „kình địch” này là khẳng định
rằng có sự khác biệt cơ bản giữa điều ta trải
nghiệm trực tiếp và điều ta được nghe hay biết qua
sách vở, và rằng chính sự chồng lấp của kiến thức
với sở thị dẫn đến những cảm giác mâu thuẫn đó
cùng sự xáo trộn cảm nhận thực tại. Song Freud không
chấp nhận diễn giải này bởi theo ông nó quá sáo mòn
và chẳng giải thích được điều gì.
Freud cố gắng truy dấu tại
sao ở Trieste ông lại chối bỏ viễn cảnh đi Athens hấp
dẫn đến thế, và tại sao ở Akropolis niềm vui sướng
nảy sinh từ cuộc gặp gỡ trực tiếp với tuyệt tác
kiến trúc lại bị bóng đen nặng nề của chủ nghĩa
hoài nghi che phủ. „Theo chứng thực của các giác quan,
giờ đây tôi đang ở Akropolis, chỉ là tôi không thể nào
tin được điều đó”, hay chính cảm giác đó được
thể hiện một cách rõ ràng hơn: „Điều bây giờ tôi
đang nhìn thấy không phải là thực”.
Chủ
nghĩa hoài nghi – chính xác là từ đó. Không chỉ là một
từ – theo Freud – mà còn là điều gì đó lớn hơn
nhiều, bởi đây là một cơ chế tâm lý ăn sâu trong con
người. Chúng ta biết rõ hoạt động của cơ chế tâm lý
này từ kinh nghiệm thông thường. Mỗi khi gặp bất hạnh,
chúng ta cự tuyệt nó bằng tiếng kêu: „không, không thể
thế được!”, như thể ta cố gắng loại trừ phần
hiện thực này, chối bỏ nó khỏi phạm vi ý thức của
chúng ta. Và tác giả dẫn ra một ví dụ văn học –
trích đoạn trường ca „Ay
de mi Alhama”, trong
đó phản ứng phòng vệ này được biểu lộ rõ ràng.
Vua Boabdil nhận được tin Alhama thất thủ.
Ngài
hiểu rõ rằng điều đó có nghĩa là vương triều của
ngài chấm dứt. Song vì không muốn biết điều đó, ngài
xử sự với tin chẳng lành như thể nó chưa đến được
với mình, như thể việc chối bỏ nó có thể thay đổi
được diễn biến tình hình.
Cartas
le fueron venidas,
de
que alhama era ganada
Las
cartas echó en el fuego
y
al mensagero mataba.
Có thể dễ dàng hiểu được
hành xử và tâm trạng nhà vua. Đơn giản là ngài cố
gắng chiến thắng sự bất lực của mình, chiến thắng
cảm giác rằng quyền lực của ngài không còn vô biên
như xưa nữa, bởi vậy ngài ném bức thư báo tin thất
bại vào lửa và ra lệnh giết các sứ giả. Không thể
thay đổi số mệnh, ngài hủy diệt phương tiện thông
tin.
Phản ứng phòng vệ này
không khó lý giải và có thể được minh họa bằng hàng
loạt ví dụ ít cực đoan hơn, trong đời thường cũng
như trong văn học, gần gũi hơn với kinh nghiệm thông
thường. Freud chú ý đến mặt thứ hai của chính sự vận
hành cơ chế tâm lý này, như ông khẳng định, cái mặt
tối, phi lô gích và mâu thuẫn với bản năng sinh tồn.
Và ông cố gắng chỉ ra rằng con người cũng phản ứng
tương tự như trong trường hợp bất hạnh – nghĩa là
chối bỏ hiện thực - khi đột nhiên gặp hạnh phúc bất
ngờ, gặp vận may, phần thưởng lớn, được người con
gái mình thầm yêu chấp nhận lời cầu hôn. Phản ứng
này được biểu lộ rõ trong câu tục ngữ có mặt trong
mọi ngôn ngữ châu Âu: „quá tốt đẹp nên không thể
là thực”. Trong khi sự phòng vệ chống lại mệnh rủi
là điều hiển nhiên, thì vì sao chúng ta lại có phản xạ
hoài nghi và không tin vào điều mang lại niềm vui, là nụ
cười của số phận – Freud hỏi. Ông gọi tình thế mâu
thuẫn này là „tình thế thất bại bởi thành công” và
cho rằng con người mắc bệnh không chỉ vì không đạt
được những khao khát trong đời, mà cả khi những khao
khát mãnh liệt được thỏa mãn.
Việc tự phân tích tâm lý
này sẽ thiếu sót nếu cụ già tám mươi tuổi Sigmund
Freud vào thời điểm viết bức-thư-tiểu-luận này không
quay trở lại thời thơ ấu và thời hoa niên trong ký ức.
Ông nhớ lại sự nghèo khổ của gia đình, không khí ngột
ngạt, đầy cấm đoán, tuổi trẻ với các khả năng và
chân trời bị hạn chế.
Không, Freud không bao giờ
nghi ngờ sự tồn tại của Akropolis, nhưng ông chưa từng
có chút hy vọng rằng khi nào đó mình sẽ được tận
mắt nhìn thấy nó. Và trong cái ngày điều đó xảy ra,
ông những muốn nói với em trai: „Em có nhớ thời trẻ
của chúng mình không? Hàng ngày mình cứ mãi đi đến
trường trên một con đường, còn chủ nhật thì đến
Prater hoặc xó xỉnh nào mình biết rõ trong thành phố.
Thế mà bây giờ mình đang ở Athens, trên đỉnh Akropolis!
Mình đã trải qua chặng đường mới dài làm sao!” - „Và
nếu có thể so sánh những điều nhỏ bé với những điều
lớn lao – ông viết tiếp – liệu Napoleon I trong ngày
lên ngôi ở Notre Dame có nói với em trai rằng: „Cha của
chúng ta sẽ nói gì nếu bây giờ ông có thể có mặt ở
đây nhỉ?”.”
Đó là biểu hiện của niềm
vui sướng tự hào, nhưng nó chỉ diễn ra trong khoảnh
khắc và gần như ngay lập tức bị xáo trộn bởi ý thức
về việc vượt qua điều cấm kỵ, việc hái trái cấm,
cảm giác tội lỗi sâu thẳm. Cảm giác tội lỗi ư?
Phải, Freud đáp.
Có lỗi với ai? Cha Freud là
một tiểu thương không giàu có lắm, học vấn không
nhiều, và Akropolis chẳng có mấy ý nghĩa đối với ông.
Nhưng các con trai đã hơn cha. Họ thật quá vượt trội
so với cuộc hiện sinh bình thường của ông, họ „truất
ngôi” ông và chính trong sự xâm phạm vào thần tượng
người cha này cần truy dấu cảm giác tội lỗi đó, cảm
giác đã tước đoạt đi niềm vui lẽ ra phải là một
phần của những người đang tiếp xúc với tuyệt tác
nghệ thuật.
Tại đây xuất hiện những
lời phê bình của Freud : „Phải chăng mặc cảm người
cha đã ngấm hết hoàn toàn vào quan điểm của trường
phái Freud và chứng minh rằng nó chẳng thực hiện được
bất cứ sự giải phóng đáng kể nào cho con người khỏi
thuyết định mệnh của „câu chuyện gia đình”? Mặc
cảm này với tất cả sự cứng nhắc định mệnh của
nó và tính dễ kích động thái quá là một chức năng
tôn giáo bị hiểu sai...”.
Trong bức-thư-luận-văn được
viết vào cuối đời này, có lẽ chủ nghĩa bi quan sâu
sắc của tác giả thể hiện nhiều hơn ở các thư văn
khác. Đây không chỉ là chủ nghĩa bi quan thuộc về nhận
thức, mà còn liên quan đến ngay chính bản chất con
người, đến sự bất lực căn bản của anh ta trong việc
đạt được hạnh phúc.
*
Tôi cố gắng tóm tắt một
cách khả dĩ trung thành dòng tư duy của người khởi thảo
môn tâm lý học chuyên sâu trong thử nghiệm nhỏ qua thư
của ông nhằm giải thích một hiện tượng tâm lý cụ
thể. Bởi thử nghiệm này được viết ra tuyệt hay và
đầy khơi gợi, tôi bắt đầu suy nghĩ xem mình đã từng
gặp điều gì đó tương tự hay chưa. Giống như khi đọc
những cuốn sách giáo khoa bệnh học tâm thần, ta nhận
ra ở mình, qua thấu cảm, những căn bệnh khác nhau được
mô tả trong đó.
Trước hết tôi tự hỏi cảm
giác tội lỗi của tôi trước các tuyệt tác như thế
nào. Câu trả lời không hề dễ dàng, sự thú nhận đánh
thức con quỷ của chủ nghĩa chủ quan, bắt ta phải nghĩ
về thời thơ ấu, về những thất bại trong cuộc sống
hay những người yêu dấu đã vắng xa, những người thân
đã khuất của chúng ta, những người không được chia
sẻ niềm vui sướng tuôn trào khi ta được trải nghiệm
những điều đẹp đẽ.
Và nó là thế này: khi đứng
ở Akropolis, tôi tưởng đến linh hồn những người bạn
thua thiệt của mình, thương tiếc cho số phận họ, không
phải vì tử thần nghiệt ngã, mà thương cảm vì họ
đã bị tước đoạt mất sự huy hoàng vô tận của thế
giới. Tôi đã gieo một hạt anh túc lên nấm mồ bị lãng
quên.
Sở dĩ tôi dẫu sao cũng đã
không bị rơi vào chủ nghĩa hoài nghi mà Freud miêu tả, vào nỗi xáo trộn của niềm tin về sự tồn tại thực sự
của những gì tôi nhìn thấy, thì đó là vì một số
nguyên nhân chính. Một khi tôi đã được chọn – tôi
nghĩ – và điều đó chẳng vì công lao gì sất, được
chọn trong trò chơi số phận mù lòa, vậy thì tôi phải
ban cho lựa chọn đó một ý nghĩa, tước đi tính ngẫu
nhiên và tùy tiện của nó. Điều đó có nghĩa là gì? Có
nghĩa là đối đầu với sự lựa chọn và biến nó thành
của tôi. Tưởng tượng rằng tôi là người đại diện
hoặc đại biểu của tất cả những người đã không
được toại nguyện. Và giống như khi là người đại
diện hay đại biểu, phải quên chính mình đi, dốc ra tất
cả sự nhạy cảm và năng lực hiểu của mình, để
Akropolis, các giáo đường, Mona Lisa tái diễn trong tôi, dĩ
nhiên trong chừng mực giới hạn của trí óc và trái tim
tôi. Và để tôi có thể truyền đạt lại cho người
khác những gì mình lĩnh hội được từ chúng.
Việc mình luôn cảm thấy
không tự tin trước các tuyệt tác, tôi cho là chuyện tự
nhiên. Các tuyệt tác có cái quyền tốt đẹp là phá vỡ lòng tự tin kiêu ngạo và truy vấn tầm quan trọng
của chúng ta. Chúng lấy đi một phần hiện thực của
tôi, bắt tôi phải im lặng và ngừng tất bật vì những
chuyện linh tinh, ngu ngốc. Chúng cũng không cho phép „tôi
– như thánh Thomas More nói - cứ lúng túng mãi quanh chuyện
vượt lên một thứ được gọi là „cái tôi” „. Nếu
chấp thuận gọi tất cả những điều này là cuộc giao
dịch, thì đó là một giao dịch có lợi nhất có thể.
Vì sự khiêm nhường và yên lặng, các tuyệt tác đổi
cho tôi „mật ngọt và ánh sáng” mà tự tôi không thể
tạo ra trong chính mình.
Một trong những tội lỗi
chí tử của văn hóa đương đại là nó tránh đương đầu
trực tiếp với các giá trị tối cao, cũng như lòng tin
đầy ngạo mạn rằng chúng ta có thể tồn tại không cần
các khuôn mẫu (thẩm mỹ cũng như đạo đức), bởi vị
thế của chúng ta trong thế giới được cho là phi thường
và không gì sánh được. Chính vì vậy ta chối bỏ sự
trợ giúp của truyền thống, bì bõm trong nỗi cô đơn
của mình, đào bới trong những ngóc ngách tăm tối của
linh hồn bé mọn bơ vơ.
Một quan điểm sai lầm đang
tồn tại là truyền thống giống như khối tài sản thừa
kế và người ta thừa kế nó một cách máy móc, không
cần gắng sức, bởi vậy những người phản đối việc
thừa kế cùng những ưu tiên vô lý đứng ra phản đối
truyền thống. Trong khi đó, mỗi tiếp xúc với quá khứ
thực chất đòi hỏi nỗ lực, công sức, do đó nó khó
khăn và không thú vị, bởi „cái tôi” nhỏ bé của
chúng ta kêu lên và tự vệ trước điều đó.
Tôi luôn tha thiết muốn giữ
niềm tin rằng các tác phẩm tinh thần vĩ đại khách quan
hơn chúng ta. Và chúng sẽ phán xét chúng ta. Ai đó đã
nói rất chí lý rằng không chỉ chúng ta đọc Homer, xem
bích họa Giotto, nghe Mozart, mà Homer, Giotto và Mozart đang
chăm chú nhìn, nghe chúng ta, khẳng định sự phù phiếm
và ngu ngốc của chúng ta. Những kẻ không tưởng tội
nghiệp, những kẻ đốt đền, những kẻ thanh lý quá khứ
giống như những kẻ điên tàn phá các tác phẩm nghệ
thuật, bởi họ không thể tha thứ cho sự bình yên, phẩm
giá và hơi mát tỏa ra từ chúng.
(Thái Linh dịch từ tập tiểu luận "Mê cung bên bờ biển", Nhà xuất bản Tập san Văn học, Warszawa 2000)