(Thái Linh dịch)
Có hai
phạm vi tư duy nơi vấn đề tự do được suy xét, cả
hai đều rất rộng; chúng độc lập với nhau về lô-gíc
tới mức việc bản thân từ „tự do” thích hợp với
cả hai không còn là điều hiển nhiên. Phạm vi tư duy thứ
nhất là cuộc vật lộn vĩnh cửu với câu hỏi: ”con
người có tự do không?”, tự do từ chính bản chất
loài người của mình, từ bẩm sinh đã được hưởng tự
do bất khả tước đoạt? Tự do theo nghĩa này - tức là,
thí dụ, khả năng chọn lựa, sự chọn lựa hoàn toàn
không bị cưỡng bách bởi bất cứ thế lực nào ngoài
nhận thức con người – đã vừa bị nghi vấn vừa được
công nhận nhiều như nhau trong lịch sử văn hóa. Tranh cãi
này có liên quan nhưng không đồng nhất với tranh cãi về
tất định luận phổ thông. Nếu mỗi sự kiện đều đã
được định sẵn tuyệt đối bởi toàn bộ các điều
kiện nơi nó xảy ra, thì việc bàn về tự do lựa chọn
chẳng còn nghĩa lý gì. Nếu từ bản chất, luật nhân
quả chung là tuyệt đối đến thế thì chúng ta hẳn đã
bị buộc phải đưa ra những kết luận đầy nghịch lý.
Điều được định sẵn hoàn toàn bởi các điều kiện
thì cũng khả lường - „trên nguyên tắc”, mặc dù
không nhất thiết „thực hiện được”. Bởi vậy ta có
thể tưởng tượng rằng, khi kỹ năng tiên đoán của
chúng ta được hoàn thiện đúng mức, một ngày nào đó,
trên cơ sở tất định luận, ta có thể đọc, thí dụ,
một tin như sau trên báo: „hôm qua Janek Kowalski đã sinh
ra ở Piotrkow, người sau này sẽ trở thành nhà soạn nhạc
kiệt xuất. Để chào mừng sự kiện này ngày mai Dàn
nhạc Giao hưởng Warszawa sẽ chơi bản giao hưởng số 3
mà anh sẽ sáng tác vào năm 37 tuổi.”
Song tự
do không chỉ là sự lựa chọn giữa những khả thể sẵn
có, mà còn là sự sáng tạo, làm ra những điều hoàn
toàn mới mẻ, hoàn toàn bất ngờ.
Trước
kia cả các nhà vật lý lẫn các triết gia đều tin vào
tất định luận cứng nhắc; họ không có chứng cớ cho
nó, nhưng họ cho rằng niềm tin này là sáng suốt hiển
nhiên, chỉ có những kẻ lầm lẫn mới nghi ngờ và nó
là cơ sở tất yếu của tư duy khoa học và duy lý. Trong
thế kỷ của chúng ta, niềm tin này bị bẻ gãy, chủ yếu
nhờ ngành cơ học lượng tử, và gần đây nhất nhờ cả
thuyết hỗn độn. Các nhà vật lý đã vứt bỏ giáo điều
tất định luận. Tất nhiên từ đây không thể kết luận
rằng con người được ban tặng ý chí tự do – các điện
tử không có ý chí tự do – mà chỉ có thể khẳng định
rằng niềm tin vào ý chí tự do không bị vật lý học
xóa sổ hay làm cho vỡ mộng. Không. Có thể, thậm chí
theo tôi là cần phải, tin vào sự tự do lựa chọn –
theo nghĩa trên – và vào sự sáng tạo lựa chọn mới;
tự do là một trải nghiệm sơ đẳng của chúng ta, trải
nghiệm của mỗi người; nó sơ đẳng tới mức không thể
tách ra thành các phần để có thể phân tích riêng rẽ,
do đó có thể cảm tưởng rằng tự do là một thực tại
phi chứng minh. Không có lý do nào để không tin vào trải
nghiệm này, dẫu chính vì nó sơ đẳng. Chúng ta thật sự
là thủ phạm của các hành động mà ta thực hiện, chứ
không chỉ là công cụ của các thế lực khác nhau quét
qua thế giới, dẫu rằng, tất nhiên, chúng ta bị chi phối
bởi các quy luật tự nhiên. Chúng ta cũng thật sự đặt
ra cho mình các mục tiêu, tốt hay xấu, mà chúng ta hướng
tới. Các điều kiện ngoại giới hay những người khác
có thể khiến mong ước của chúng ta tan vỡ, chúng ta có
thể, thí dụ, bị hạn chế về thể lực tới mức không
có khả năng thực hiện hiệu quả bất cứ lựa chọn
nào, nhưng chúng ta vẫn không bị lấy mất năng lực lựa
chọn, mặc dù bị mất đi khả thể sử dụng thứ tự
do này.
Như vậy
là thứ tự do này được ban cho con người đồng thời
với nhân tính của họ, là nền tảng của nhân tính ấy,
tạo ra con người như một điều gì đó đặc biệt từ
bản chất.
Ở đây
không có lý do gì để chúng ta khẳng định theo thánh
Augustin và Kant, rằng chúng ta chỉ tự do khi lựa chọn
cái tốt chứ không chọn cái xấu, do đó tự do của
chúng ta được xác định qua nội dung sự chọn lựa chứ
không phải bản thân khả năng chọn lựa. Khẳng định
như vậy nghĩa là gói gọn các học thuyết luân lý vào
chính khái niệm tự do.
Song ta
cũng nói về thứ tự do không hiện hữu trong bản chất
tồn tại của chúng ta, mà lại là tác phẩm của văn
hóa, của đời sống tập thể và pháp luật. Tự do theo
nghĩa này là phạm vi các hành động của con người mà
tổ chức xã hội không cấm cũng không bắt buộc, do đó
con người có thể chọn những gì họ thích, làm hay không
làm điều gì đó mà không gây ra nguy cơ bị trả đũa.
Tự do theo nghĩa này tất nhiên là có mức độ, nó có
thể nhiều hay ít hơn và ta thường so sánh các thể chế
chính trị khác nhau bằng thước đo tự do – từ những
thể chế nơi tự do gần bằng không, tức các thể chế
toàn trị với hình thức cực đoan (ví dụ nước Nga thời
Stalin, Trung Quốc thời Mao Trạch Đông và các chế độ
cộng sản châu Á khác, Đức Quốc xã), đến các thể
chế nơi các lệnh cấm và mệnh lệnh được giới hạn
đến tối thiểu. Các chế độ toàn trị luôn có tham
vọng điều chỉnh mọi hành vi của con người và không
để cho các cá nhân có quyền chọn lựa. Các chế độ
độc tài nhưng không toàn trị thì muốn lấy đi tự do
của con người trong mọi lĩnh vực nơi tự do có thể là
mối đe dọa cho chính quyền, nhưng trong các vấn đề
không ảnh hưởng đến việc giữ chính quyền thì chúng
không hướng tới việc kiểm soát tuyệt đối và không
cần phải có một hệ tư tưởng toàn diện, bao quát.
Dễ thấy
là mặc dù tự do theo nghĩa này có thể bị giảm thiểu
đến bằng không, song nó lại không thể trở thành vô
hạn. „Tình trạng tự nhiên” giả định mà trước đây
các lý thuyết gia về đời sống xã hội xét đến, nơi
không có bất cứ quyền lợi, luật lệ, bất cứ tổ
chức đời sống tập thể nào, mà chỉ là cuộc đấu
tranh không dứt của tất cả chống lại tất cả, chưa
từng tồn tại, nhưng nếu tình trạng này có tồn tại
đi chăng nữa, thì nó cũng sẽ không bao giờ là tình
trạng tự do vô hạn. Không thể nói rằng trong một thế
giới như thế „mọi thứ đều được phép” (hay „được
làm mọi thứ”), vì một điều có thể được phép hay
không là bởi một luật lệ nào đó. Nơi không có luật
thì cũng không có tự do, từ này sẽ mất ý nghĩa; nói
cách khác tự do trong thế giới của chúng ta luôn bị
giới hạn. Robinson Crusoe không hưởng thụ sự tự do vô
hạn, nói cho cùng thì anh ta không hưởng thụ chút tự do
nào hết. Tự do – lớn hơn hay nhỏ hơn – chỉ có thể
có được ở nơi có gì đó được phép và có gì đó bị
cấm (xin nhắc lại, để vấn đề được sáng tỏ hơn,
một câu tiếu lâm mà tôi không biết của ai, có từ thời
chiến tranh thế giới thứ nhất: ở Áo những gì không
bị cấm là được phép, ở Đức những gì không được
phép là bị cấm, ở Pháp mọi thứ đều được phép kể
cả những gì bị cấm, ở Nga tất cả mọi thứ đều bị
cấm kể cả những gì được phép).
Qua đây
chúng ta thấy rằng, mặc dù hai nghĩa trên của từ „tự
do” rất khác nhau, tới mức có thể có tự do theo nghĩa
thứ nhất mà không có tự do theo nghĩa thứ hai, song chúng
có liên hệ với nhau ở mức độ ta có thể sử dụng
cùng một từ mà không ảnh hưởng gì đến hòa bình thế
giới, miễn là chúng ta không trộn lẫn các nghĩa đó
với nhau. Trong cả hai trường hợp đều nói đến khả
năng lựa chọn: trong nghĩa thứ hai là về các điều kiện
tình thế của sự lựa chọn, về những gì nói chung tổ
chức xã hội và luật pháp chừa lại cho chúng ta lựa
chọn; trong nghĩa thứ nhất là về các điều kiện tinh
thần của chính chúng ta cho sự lựa chọn và sáng tạo,
về bản thân thực kiện rằng chúng ta có quyền năng lựa
chọn và sáng tạo, mặc dù khả năng này của chúng ta
không giả định bất cứ điều gì về phạm vi các lợi
ích mà ta có thể thực sự lựa chọn.
Có hai sai
lầm phổ biến cần chú ý khi nói về tự do. Sai lầm thứ
nhất chúng ta mắc phải khi đổ vấy khái niệm tự do
cho mọi đòi hỏi của con người và mọi lợi ích mà
người ta khao khát. Thật ra cũng chẳng có gì không ổn
trong câu: „tôi đã tự giải phóng khỏi cơn đau” hay
„cơn đói”; nhưng mặc dù không bị đau hay bị đói là
đòi hỏi cơ bản nhất của con người, thì cũng không
đúng nếu nói rằng khi đòi hỏi này được thỏa mãn,
chúng ta sẽ được hân hưởng một thứ tự do cụ thể
nào đó. Khi đó nói về „tự do” là nhẫm lẫn bởi
vấn đề ở đây không phải là phạm vi cũng như khả
thể chọn lựa hay sáng tạo bất cứ thứ gì. Cơn đau
qua đi và như vậy là tốt, loại bỏ cơn đau là lợi ích
vô cùng đáng khao khát; lợi ích đáng khao khát cũng có
thể là quả táo cho người đang đói hay giấc ngủ cho
người mệt mỏi hay bất cứ thứ gì mà con người thèm
muốn. Nhưng loại bỏ cơn đau hoặc ăn táo không phải là
một thể loại tự do, mà là lợi ích đáng khao khát.
Biết bao người trong thế kỷ chúng ta, và trước kia nữa,
đã hy sinh đời mình trong cuộc đấu tranh cho tự do đúng
nghĩa, nên việc kéo giãn ý nghĩa của từ này ra cho bất
kỳ thứ gì bất kỳ khi nào con người khao khát sẽ làm
mờ tối mạng lưới khái niệm của chúng ta và tước đi
năng lực của từ chuẩn; cốt lõi của khái niệm bị
đánh mất. Sự phân biệt phổ biến giữa „tự do đối
với cái gì đó” và „tự do để làm điều gì đó”
là không cần thiết.
Sai lầm
thứ hai là khi cho rằng tự do theo nghĩa pháp lý thứ hai
sẽ không có ý nghĩa nếu các đòi hỏi khác không được
đáp ứng. Đây là một lý lẽ trước kia được những
người theo chủ nghĩa cộng sản sử dụng phổ biến:
„việc nhà nước có tự do chính trị thì giúp được
gì cho một người thất nghiệp đói khát?” Nhưng nó
giúp được đấy. Cái đói có thể là một cảm giác cấp
bách hơn sự thiếu tự do chính trị , song khi các tự do
này hiện hữu, những người thất nghiệp đói khát có
nhiều cơ hội hơn rất nhiều để phấn đấu cải thiện
số phận, họ có thể tố chức đấu tranh cho lợi ích
của mình và có thể đòi hỏi quyền lợi nếu thấy mình
bị thiệt thòi.
Do vậy,
nếu việc gọi mọi lợi ích đáng khao khát là tự do là
sai (dầu sao thì một trại tập trung không có nạn đói
là điều có thể hình dung, nhưng sẽ là mạo hiểm nếu
khẳng định rằng trại tập trung này bảo đảm cho các
tù nhân các tự do nhất định, trong khi đó một thể chế
tự do bảo đảm các tự do khác), thì không có gì phải
nghi ngờ rằng tự do trong nghĩa pháp lý cũng là một ích
lợi rất đáng khao khát; ở đây nó là lợi ích tự
thân, không chỉ bởi nó là công cụ và điều kiện để
đạt được các lợi ích khác.
Ít nhất
từ đây dẫn đến kết quả là càng nhiều tự do (theo
nghĩa này) càng tốt. Nguyên tắc này không thể được
chấp nhận một cách vô hạn định. Chắc chắn phần
đông trong chúng ta cho là tốt khi nhiều hành vi trước
kia bị trừng phạt giờ đây không còn bị trừng phạt
nữa, ít nhất là ở các nước văn minh (ví dụ đồng
tính luyến ái hay phép thuật). Nhưng không ai có tư duy
lành mạnh lại đòi hỏi tự do đi xe bên phải hoặc bên
trái đường tùy thích. Ở nhiều nước có những ý kiến
cho rằng trẻ em ở trường có quá nhiều tự do, quá ít
kỷ luật và điều đó ảnh hưởng tới cả chất lượng
giảng dạy lẫn giáo dục đạo đức và công dân. Hơn
nữa hoàn toàn không chắc là trẻ em từ những tuổi nhỏ
nhất muốn có càng nhiều không gian chọn lựa càng tốt,
mặc dù khao khát này lớn lên theo tuổi tác; có lẽ trẻ
nhỏ chấp thuận một cách tự nhiên rằng người lớn
bảo cho chúng biết cần phải làm gì và chúng không đòi
hỏi người lớn để chúng tự lựa chọn. Chính người
lớn chúng ta trong nhiều việc cũng dễ dàng nghe theo sự
lựa chọn của người khác; chúng ta không tự tin và chờ
đợi lời khuyên của các chuyên gia dẫu biết rằng không
phải chuyên gia nào cũng xứng đáng được tin tưởng. Ta
biết rằng sự chọn lựa tốt thường phụ thuộc vào
hiểu biết về sự vật, và không ai có thể khoe mình có
kiến thức đầy đủ trong mọi chuyện khi cần chọn lựa.
Chúng ta có tự do nhưng thà không sử dụng nó đối với
những việc chúng ta không thành thạo.
Tóm lại,
không có một nguyên tắc quan trọng chung xác định tự
do nhiều hơn hay ít hơn bao nhiêu là tốt đối với chúng
ta. Đôi khi chúng ta có cơ sở cho rằng tự do cũng có thể
quá nhiều, không chỉ quá ít, và rằng tự do vượt ra
ngoài một số khuôn khổ sẽ gây hại. Chắc hẳn sẽ an
toàn hơn nếu luật pháp mắc tội khi cho phép quá nhiều
hơn là quá ít tự do để công dân tự quyết, nhưng ngay
cả nguyên tắc này cũng không thể được thừa nhận vô
hạn chế.
(Trích từ tập "Các thuyết trình mini về những vấn đề maxi", NXB Znak, Kraków 2008)