(Thái Linh dịch)
Đã có lời bàn về
sự công bằng thực chất là nỗi đố kỵ cải trang. Bây
giờ xin có vài lời về công bằng như là một thực
tại, chứ không phải một sự đội lốt.
Một khi hầu hết
các triết gia, luân lý gia và lý thuyết gia pháp luật đều
đã gắng sức giải thích công bằng là gì, hành động
công bằng, con người công bằng và quốc gia công bằng
là gì, cần phải nhận định rằng họ đã không đi đến
một sự đồng thuận hay sáng tỏ nào trong vấn đề này.
Từ đó cũng cần giả định rằng đây là một trong
những viên gạch quan trọng nhất trong tòa nhà khái niệm
của chúng ta, khi mà cái số mệnh ấy (không có sự sáng
tỏ và đồng thuận) rơi xuống mọi viên gạch quan trọng
mà các lý thuyết triết học luận bàn tới.
Trong nhiều trường
hợp cụ thể có thể khá dễ dàng đi đến thống nhất
về việc một hành động là không công bằng, ví dụ
quan tòa tuyên án một người vô tội trên cơ sở những
chứng cớ mơ hồ đầy nghi vấn. Cũng có thể, song đã
ít hiển nhiên hơn, đưa ra những ví dụ về các hành xử
công bằng. Chẳng hạn: ông già Noel chia quà cho mọi trẻ
em có mặt trong cuộc vui một cách công bằng; „công
bằng” ở đây có nghĩa là „đều nhau”. Nhưng khi nói
vậy, có phải chúng ta đã giả định, dù muốn dù không,
rằng nguyên tắc „mỗi người đều được bằng nhau”
có một giá trị phổ quát? Ta hãy suy nghĩ một chút, phải
làm thế nào để không chỉ đơn giản là thay đổi thế
giới, mà còn phải lộn nhào trên dây, thực hiện một
cuộc cách mạng với hàng triệu quân binh, để đưa được
nguyên tắc này vào, dẫu vẫn biết trước rằng nó không
đem lại kết quả mong muốn.
Những người viết
về đề tài này, từ thời Luân lý học cho Nicomachus
của Aristotles, đã không ít lần lưu ý rằng công bằng
thường được hiểu đơn giản như là danh từ chung cho
một phẩm hạnh; con người công bằng là con người cao
quý, hành động công bằng là cái gì đó cần làm trong
trường hợp cụ thể theo những quy tắc đạo đức, hành
xử công bằng là hành xử phù hợp với chuẩn tắc luân
lý hiện hành. Song trong nghĩa bao quát này khái niệm công
bằng không mấy hữu dụng. Các chuẩn tắc đạo đức
cũng rất khác nhau: chỗ này là đòi hỏi trả thù, chỗ
kia là kêu gọi tha thứ, chỗ này được phép, chỗ kia
lại không cho phép giết đối thủ chính trị. Cũng không
thể nói người hành xử theo đúng luật pháp của nhà
nước là công bằng, bởi có thể khẳng định rằng luật
pháp đôi khi bất công, và điều này không chỉ ở các
thể chế độc tài hay toàn trị (ví dụ trách nhiệm tố
giác gia đình hay hàng xóm hay hình phạt vì tàng trữ sách
cấm), mà còn cả ở các quốc gia nơi có các định chế
dân chủ hoạt động. Một số người cho rằng hệ thống
thuế lũy tiến là bất công, những người khác - rằng
cấm sở hữu súng, những người khác nữa – rằng để
thanh toán sự bất công đã qua thì phải dành các ưu đãi
cho con cháu những người từng chịu bất công (ví dụ
phân biệt chủng tộc hay phân biệt đối xử với phụ
nữ).
Hãy
giả thiết rằng tôi là công chức trong một nhiệm sở,
nhưng tôi bị đuổi việc, tôi kiện lãnh đạo ra tòa và
đòi bồi thường, vì như tôi khẳng định, tôi đã hoàn
thành các nghĩa vụ của mình. Chúng ta hãy tiếp tục giả
định rằng tôi thực sự đã hoàn thành các nghĩa vụ
đó, nhưng bị đuổi vì tính tình quá kinh khủng, tôi cãi
nhau liên tục với mọi người, ai tôi cũng làm mất lòng,
tôi thường nổi điên om sòm lên, chả ai chịu nổi tôi.
Tôi có quyền đòi „công bằng” không? Điều này phụ
thuộc vào định nghĩa từ công bằng, phần lớn chắc
hẳn xem việc đuổi tôi là công bằng, nhưng sẽ luôn có
một thiểu số với định nghĩa khác (tôi bị đối xử
bất công khi tôi đã làm tất cả mọi việc mà người
ta trả tiền để tôi làm).
Công
bằng, theo công thức cổ xưa, là cho mỗi người cái mà
anh ta xứng đáng được hưởng. Nhưng làm sao ta có thể
biết được mỗi người xứng đáng được hưởng điều
gì, theo sự công bằng phân phối, nghĩa là liên quan đến
phân chia lợi ích, hay theo sự công bằng trừng phạt, nơi
các lợi ích là phản-lợi ích – tức các hình phạt?
Suốt nhiều thế kỷ người ta đã nghiên cứu về đề
tài giá cả công bằng hay mức lương công bằng. Dự án
đo giá trị hàng hóa thông qua lượng thời gian cần thiết
để sản xuất ra thứ hàng hóa đó có vẻ công bằng,
bởi mỗi nhà sản xuất sẽ nhận được tỉ lệ với
„công sức” bỏ ra. Song dự án này bất khả thi trong
kinh tế thị trường, sự chuyển đổi từ một giá trị
chung chung như vậy sang giá cả là không thể. Thị trường
định giá, thị trường cũng định mức lương, nhưng thị
trường không công bằng và không thể công bằng (nếu ai
đó khẳng định thị trường là công bằng thì phải
tuyên bố rằng thị trường công bằng từ định nghĩa,
song hiển nhiên một giả định như thế chẳng có gì
chung với những điều ta thường nghĩ – mặc dù không
rõ ràng – khi nói về sự công bằng). Cung và cầu phụ
thuộc vào những vận may đỏng đảnh, những trường hợp
ngẫu nhiên, khủng hoảng ở một đất nước xa xôi nào
đó, những thứ mốt không thể dự đoán trước v.v...,
chẳng có gì là công bằng ở đây cả. Nếu thị trường
chứng khoán phải tuân thủ các qui tắc công bằng thì nó
sẽ không thể tồn tại. Thị trường gây ra các cuộc
phá sản và khiến nhiều người mất việc. Quả thực,
trong thế giới văn minh con người không chết vì đói,
người thất nghiệp có trợ cấp tối thiểu, nhưng đó
là các hoạt động phi thị trường của nhà nước, là
phương thuốc chữa các hậu quả xấu của cơ chế thị
trường. Tương tự, các áp lực xã hội về việc trả
lương cũng là phi thị trường. Không thể khác được,
khi mà việc loại bỏ thị trường đồng nghĩa với chế
độ toàn trị cùng với mọi hệ quả chính trị và kinh
tế của nó, với nghèo đói và mất tự do. Có thể nói
các bảo đảm của nhà nước cho nạn nhân của thị
trường là tác phẩm của công bằng được không? Có
thể, với giả định mỗi người „được phép có”
các phương tiện để tồn tại, rằng sẽ là tương phản
với công bằng nếu ai đó chết vì đói khi có thể ngăn
ngừa được điều này. Nhưng nếu không thể ngăn ngừa
được, nếu hàng nghìn người chết đói vì nội chiến
hay vì sự sụp đổ của mọi cấu trúc xã hội thì sao?
Khi đó từ „công bằng” mất nghĩa.
Cũng
không cách gì xác định „công bằng” sao cho mỗi lợi
ích đều qui đổi được thành một thứ tương ứng; khi
tôi cho người ăn xin hay một định chế từ thiện một
xu, tôi không trông đợi bất kỳ sự trả công nào. Coi
những người bình đẳng như nhau, còn những người bất
bình đẳng không như nhau song tỉ lệ thuận với sự khác
biệt – qui tắc này của Aristoteles là tốt nhưng khiếm
khuyết trong nhiều trường hợp. Quả thực, theo suy tưởng
của chúng ta mọi người phải bình đẳng trước pháp
luật, do đó nếu luật pháp gây ra sự khác biệt giữa
người với người (ví dụ khi tuyên phán thành lập tội
danh, khi xét thưởng các đóng góp, khi từ chối các quyền
lợi khác nhau của trẻ em, bảo đảm các ưu tiên cho
người tàn tật), thì chỉ có thể thực hiện điều đó
khi mỗi người thuộc một phạm trù nhất định đều
được đối đãi như nhau. Khi chúng ta sống một cách bất
khả kháng trong tập thể (đây là điểm được Rawl nhấn
mạnh, ông là tác giả của luận văn về công bằng được
đánh giá cao nhất trong vòng mấy chục năm trở lại
đây), chúng ta cũng tham gia vào việc bảo vệ các quyền
lợi tập thể, mà điều này chỉ có thể xảy ra khi mỗi
người đều công nhận rằng người khác cũng có những
quyền lợi như mình và quyền bảo vệ các quyền lợi ấy
như mình.
Nói
cách khác, hệ thống xã hội công bằng là hệ thống dựa
trên thừa nhận sự có đi có lại của tất cả các đòi
hỏi và quyền lợi. Nếu thiếu sự có đi có lại này,
tập thể sẽ tan rã. Song liệu tôi có thể tự nhủ: tôi
không muốn bất cứ sự có đi có lại nào, tôi chăm chút
cho lợi ích của mình, không quan tâm đến lợi ích người
khác, và tôi chỉ canh chừng để không ai tóm được gáy
tôi? Có thể, nhiều người vẫn hành động như vậy mà
không nhất thiết trước đó họ phải suy ngẫm về sự
chặt chẽ của khái niệm công bằng; có thể, nhưng khi
đó, lúc bị tóm và xử phạt, tôi sẽ không thể kêu ca
rằng tôi phải chịu đựng một sự bất công nào đó.
Một
khế ước xã hội ngầm chính là nền tảng của trật tự
công bằng; vậy thế giới đòi hỏi ở tôi điều gì khi
muốn tôi hành xử một cách công bằng? Có lẽ chính là
việc tôi công nhận có một khế ước bất thành văn như
thế, và rằng xét cho cùng thì điều đó cũng có lợi
cho tôi mặc dù tôi khoái có nhiều quyền ưu tiên và
chẳng đếm xỉa gì tới người khác hơn. Nhưng ta hãy
lưu ý, trong cách hiểu này, công bằng đã không còn là
quy tắc: „mỗi người được những gì mình xứng đáng”;
hoàn toàn không cần giả định rằng ai đó xứng đáng
được cái gì đó, thậm chí ta không cần nói rằng điều
gì đó là tốt về mặt đạo đức, chỉ cần công nhận
rằng sự đồng thuận về việc có đi có lại trong các
đòi hỏi xuất phát từ các quyền lợi ích kỷ sẽ bảo
đảm một trật tự ổn định và có thể chịu đựng
được. Khái niệm công bằng như một đức hạnh khi đó
trở nên không cần thiết. Chúng ta đặt giả thiết rằng
mọi người có các quyền lợi mâu thuẫn và rằng sự
thiếu hụt trong phần lớn các lợi ích mà người ta theo
đuổi là không thể tránh khỏi. Không có bất cứ môn
siêu hình học nào về sự công bằng, bất cứ quy định của luật tự nhiên, bất cứ bi kịch Antigone, bất cứ
lệnh trời nào.
Nhưng
con người luôn muốn biết nhiều hơn, muốn tin vào một
trật tự tự nhiên hay một tiếng nói từ trời cao nói
cho ta biết ta phải làm gì để thực thi công bằng, mà
để có được điều đó thì luật thực định và việc
thừa nhận sự có đi có lại của các đòi hỏi là chưa
đủ. Chắc chắn tôi có thể hành xử bất công mà vẫn
không vi phạm pháp luật, và đôi khi hành xử công bằng
nhưng lại vi phạm nó. Có những mối quan hệ giữa người
với người mà luật pháp không điều chỉnh (dẫu thời
nay luật pháp càng ngày càng muốn điều chỉnh nhiều
hơn) nhưng khái niệm công bằng lại được sử dụng.
Chắc chắn khái niệm công bằng không thể đòi hỏi tôi
đối xử với tất cả mọi người như nhau, không phân
biệt những người thân thiết với tôi, bạn bè và những
người tôi yêu. Nếu tôi làm vậy, tôi sẽ là một con
quái vật. Tôi được phép ưu tiên những người khác
nhau tuy theo tình cảm của mình (và thừa nhận rằng mỗi
người đều được phép như thế), ngoại trừ các mối
quan hệ mà pháp luật áp đặt điều gì đó bởi đòi
hỏi vô tư không thiên vị. Chúng ta sẽ cảm thấy không
hợp lý lắm nếu thẩm phán hay thành viên bồi thẩm đoàn
tham gia phiên xử mà anh trai mình là bị cáo, hoặc một
giảng viên hỏi thi con gái của mình. Bởi vậy chúng ta
đặt giả thiết (có lẽ là hợp lý) rằng mỗi người
đều bị tình nghi là họ sẽ cho những người họ đặc
cách các quyền ưu tiên khi có thể.
Nhưng
thực ra, điều mà tinh thần thế giới trông đợi ở
chúng ta hoàn toàn không phải sự công bằng, mà là lòng
tốt đối với người thân, tình bạn và lòng thương
xót, nghĩa là những phẩm chất không cách nào đưa ra
khỏi sự công bằng. Dưới góc độ này, chúng ta làm theo Chúa, như học thuyết Cơ đốc dạy dỗ chúng ta. Các
học thuyết này nói rằng Chúa thường không hành xử với
chúng ta theo các quy tắc công bằng, mà chỉ bằng tình
yêu thương không có quy tắc nào hết. Không một ai
tuyên bố học thuyết này có thể có công đức tới mức
được hưởng sự cứu rỗi vĩnh cửu một cách công
bằng; phát biểu điều này là đủ, để thừa nhận
rằng đây là sự thật hiển nhiên. Các khuynh hướng cực
đoan của Cơ đốc Giáo, của dòng August gốc, còn cho rằng
nếu Chúa trị vì theo sự công bằng, thì chúng ta xuống
địa ngục cả lượt, không có ngoại lệ, tất cả chúng
ta đều đáng bị nguyền rủa đời đời. Ngay cả khi ta
không chấp nhận thứ chủ nghĩa cực đoan này, thì lương
năng cũng thầm nhắc chúng ta rằng sự cứu rỗi vình
hằng không thể là sự đền đáp công bằng cho các công
đức của chúng ta, dẫu đó là công đức vĩ đại nhất
song hữu hạn. Bởi vậy, Chúa không công bằng, nhưng Chúa
đầy lòng xót thương. Chúng ta cũng hãy như thế, không
quá lo lắng về sự công bằng, đó chính là kim chỉ nam
tốt.
(Trích từ tập Các thuyết trình mini vầ những vấn đề maxi, NXB Znak, Kraków 2008)