Sunday, 8 February 2015

London và một thực tại khác



Trong cuốn „Thời kỳ khủng hoảng của các bảo tàng”, Jean Clair – sử gia nghệ thuật, nhà bảo tồn, giám đốc lâu năm của bảo tàng Picasso ở Paris – sau khi kể trải nghiệm đầu đời của mình với nghệ thuật đã viết: „Giờ đây, sáu mươi năm sau, tôi vẫn yêu nghệ thuật, nhưng tình yêu đã nhiều ghen tuông hơn, con mắt tinh tường hơn, và niềm say mê có nhiều đòi hỏi khắt khe hơn. Bởi thế tôi chạy trốn khỏi những bảo tàng lớn nơi tôi đã học về nghệ thuật. Tôi chỉ thích thú bước qua ngưỡng cửa những nơi chốn mỗi lúc một trở nên ít ỏi hơn, nơi sự cô đơn, tĩnh lặng và ánh sáng còn cho phép người ta yêu nghệ thuật. Những nơi ấy là Brussels, London, Munich, Vienna...”

Phải. London. Điều cuốn hút nhất của London, với tôi, luôn là các bảo tàng nghệ thuật. Đó là một thế giới khác. Một thực tại khác. Là nơi chốn để hoài nhớ và lâu lâu lại muốn tìm về để lấy lại sự cân bằng khi công việc và cuộc sống quá bận rộn. Phải chăng đó là một phản ứng tự nhiên, một nhu cầu nằm sẵn trong gene di truyền của con người, có cội rễ sâu xa từ những hang động ở Indonesia 40 nghìn năm trước?

Tất nhiên đó không phải là niềm tin ngây thơ rằng các tác phẩm nghệ thuật có một sức mạnh tương tự như tượng thánh, chỉ cần nhìn thấy, chạm vào là lập tức được an ủi, được lành bệnh, rằng một bức tranh tự nhiên sẽ tác động đến người xem mà không cần bất cứ nỗ lực nào, bất cứ sự chuẩn bị hay kiến thức nào. Đó thật ra không phải là một sự „tìm đến” mà là sự „tìm về”. Người ta tìm đến những gì chưa biết, những gì nằm ngoài bản thân mình, những gì hướng về tương lai. Người ta tìm về những gì đã biết đã quen, những gì bên trong mình, những gì hướng về quá khứ.

Đó là cảm giác thân quen, trìu mến và an ủi tràn ngập trong lòng khi tôi ngồi trước bức tranh Cái ghế của Van Gogh ở Bảo tàng Quốc gia, sau một ngày lang thang chân mỏi rã. Sự vững chãi và bình yên tỏa ra từ bức tranh khiến tôi không còn thấy mệt mỏi. Những nét cọ kiên quyết, mạnh mẽ. Màu vàng tươi sáng như nụ cười ấm áp của Van Gogh. Và cái tẩu trên ghế, Cái tẩu của Van Gogh1 mà tôi đã say sưa đọc bao ngày! Bức tranh là bức chân dung tự họa đẹp nhất của họa sĩ. Tôi ngồi đó ngắm ông, bao nhiêu điều trở về như cuốn phim trong tâm trí. Tôi nghĩ về Gauguin, về Ngôi Nhà Màu Vàng, về tình bạn của họ, những xung đột, sự ra đi... Tôi nhớ lại bức chân dung tự họa với băng tai của Van Gogh mà tôi mới xem sáng hôm đó trong Courtauld Gallery - bảo tàng tôi yêu thích nhất ở London.

Courtauld Gallery, ở đó có đủ sự cô đơn, tĩnh lặng và ánh sáng. Không có quá nhiều người xem và ai cũng khẽ khàng. Ánh sáng tự nhiên rọi vào từ các ô cửa sổ lớn khiến các bức tranh được ngắm nhìn trong điều kiện tương tự như khi chúng được vẽ nên, chứ không phải thứ ánh sáng nhân tạo thường thấy ở các bảo tàng. Nơi ấy, tôi đã ngỡ ngàng và cảm động, lần đầu tiên, nhận ra màu xanh mát rượi và dịu dàng của Cezanne trong bức tranh Hồ ở Annecy. Không giống bất cứ bức ảnh chụp nào trong bất cứ album nào. Đó là màu xanh của mùa xuân tinh khiết. Trong màu xanh ấy có cả làn không khí trong trẻo và nụ cười mát lành của bạn tôi, có cả cái mong manh của những bong bóng xà phòng mà con gái tôi thổi bên bờ hồ Annecy năm ngoái. Cezanne đưa tôi tìm về kỷ niệm, cũng như Manet đưa tôi tìm về một „bữa sáng trên thảm cỏ” ở Paris năm nào, với nắng mềm và hoa hồng giăng đầy xung quanh...

Tôi không nghĩ rằng mình có thể học được nhiều điều mới mẻ ở các bảo tàng. Nếu có học, thì đó là một sự học lại. Tôi nhận ra mình đi lướt rất nhanh những phòng tranh thời Trung Cổ, Phục Hưng, nhưng có thể ở lì cả buổi với các họa sĩ ấn tượng hay hậu ấn tượng. Cũng y như khi tôi xem sách về các thời kỳ nghệ thuật. Những gì qua sách vở không hấp dẫn tôi thì cũng khó gây ấn tượng trực tiếp.

Hẳn là phải có một cái duyên thì người ta mới có thể đi ngang qua một bức tranh hay tác phẩm nào đó, hoàn toàn không chủ ý, và bỗng nhiên thấy rung động, cảm thấy nó đặc biệt, như khi Zbigniew Herbert đi ngang qua bức Tĩnh vật với chiếc yên cương của Torrentius, một họa sĩ ông chưa từng biết, để từ đó bắt đầu một câu chuyện dài với những năm tháng tìm tòi, nghiên cứu về cuộc đời của người họa sĩ phi thường chỉ để lại duy nhất một bức tranh này. Nhưng để có được cái duyên như thế có lẽ người ta còn cần một sự mẫn cảm đặc biệt, một nền tảng hiểu biết sâu sắc về lịch sử nghệ thuật, là những điều mà một người bình thường như tôi không có.

Không chỉ là sự tìm về những kỷ niệm và trải nghiệm, chuyến viếng thăm bảo tàng còn là sự tìm về một thứ ngôn ngữ nguyên sơ, chân thành và trực tiếp, chậm rãi và nghiêm cẩn. Bằng màu sắc, hình khối, thời gian, bằng suy tư và những đối thoại không lời. Khác với ngôn ngữ Facebook hay ngôn ngữ thương mại. Picasso trong bảo tàng không phải nickname hay nhãn hiệu một loại ô tô.

Không phải tôi muốn nói rằng giờ đây còn có thể tách rời nghệ thuật và thương mại. Trong một thế giới thương mại như thế giới hiện nay thì đó là điều không tưởng. Gallery Saatchi ở London, nơi tập hợp rất nhiều tác phẩm của rất nhiều nghệ sỹ đương đại nổi tiếng là sở hữu của Charles Saatchi, một tỉ phú trong ngành quảng cáo, được xếp vào số những người có ảnh hưởng nhất trong thị trường nghệ thuật quốc tế và không ít lần bị cáo buộc là đã thao túng thị trường. Song bảo tàng, như một định chế, vốn phi thương mại và phi lợi nhuận, với mục đích dành cho nghiên cứu, giáo dục và cuối cùng mới là giải trí. Trong bảo tàng, người ta có không gian và điều kiện để tìm về một ngôn ngữ khác, thứ ngôn ngữ mà bản chất của nó vốn không phải (và không nên) mang tính thương mại.

Trong bảo tàng, người ta gìn giữ những thứ quý báu nhất của dân tộc, của nhân loại để mọi người cùng được chiêm ngưỡng, tìm hiểu. Năm 2007 khi bảo tàng Louvre tuyên bố ký hợp đồng với Adu Dhabi để „cho thuê” thương hiệu Louvre với giá hơn 500 triệu $ và thành lập bảo tàng Louvre Adu Dhabi, sau đó một phần vật phẩm của Louvre sẽ được mang đến Adu Dhabi trưng bày với giá cho thuê khoảng hơn 700 triệu $ trong vòng 30 năm, dự án này đã làm dấy lên một làn sóng phản đối và nhiều cuộc tranh cãi từ giới giám đốc và các chuyên gia bảo tàng. Bảo tàng và các bộ sưu tập của chúng không phải là những món hàng thương mại. Đầu những năm 2000, khi thành phố Liège nợ nần be bét muốn bán bức tranh Gia đình Soler của Picasso trong bảo tàng để trang trai nợ nần, hàng loạt các kiến nghị phản đối từ các bảo tàng ở châu Âu và Mỹ đã khiến chính quyền Liège phải từ bỏ ý định. Trong lịch sử đương đại châu Âu chỉ có 2 quốc gia từng đem bán di sản nghệ thuật của mình là Nga và Đức. Năm 1922 Lenin bán một phần bộ sưu tập của nữ hoàng Catherine II cho một triệu phú Mỹ. Sau khi Hitler lên cầm quyền, nước Đức Quốc xã tiến hành một chiến dịch xóa sổ nghệ thuật „suy đồi” của người Do Thái, nghĩa là gần như toàn bộ nghệ thuật hiện đại. Hitler cho tiêu hủy hoặc bán lại cho tư nhân toàn bộ các tác phẩm nghệ thuật của các bảo tàng. Tuy nhiên trong cả hai trường hợp này vấn đề đều được lý giải bằng ý thức hệ. Theo đạo đức chủ nghĩa xã hội sự xa hoa của bộ sưu tập thuộc về Catherina II không thích hợp với sự nghèo khổ của nhân dân. Theo tư tưởng của Đảng Quốc Xã, tác giả được giới thiệu và trưng bày phải phù hợp với bộ chuẩn tắc của chủng tộc Đức.2

Di sản nghệ thuật được bảo quản và trưng bày trong các bảo tàng không phải là đối tượng của thị trường và thương mại, mà là tài sản chung của nhân dân. Các tác phẩm nghệ thuật được sưu tập không phải là hàng hóa có thể tái sản xuất, chúng mang tính chất đặc biệt, cụ thể, duy nhất, res unica solaque, mang chở tinh hoa và tâm hồn của loài người qua những thời đại khác nhau. 

Các bảo tàng công ở London đều miễn phí. Về điểm này, London là kiểu mẫu của đạo đức bảo tàng. Những ngày ở London, tôi chỉ lang thang từ sáng đến tối trong các bảo tàng mà vẫn không thấy chán, dẫu biết rằng London còn có nhiều điều khác đầy hấp dẫn. Thôi đành hẹn đến lần sau.

Nhưng biết đâu lần sau, đến London, tôi cũng lại chỉ kịp lang thang trong các bảo tàng? Để rồi mệt quá đôi chân này / tìm đến chiếc ghế nghỉ ngơitôi sẽ lại tìm về chiếc ghế ấy, chiếc ghế của Van Gogh?


(2.2015)


-------
1 Cái tẩu của Van Gogh” là cuốn sách viết về Van Gogh của Wojciech Karpiński, sử gia nghệ thuật, nhà phê bình văn học và nhà viết tiểu luận người Ba Lan, hiện sống tại Paris.

2 Theo Jean Clair

No comments: