Tôi đặt
vé đi Amsterdam trong một phút nhớ Vincent điên cuồng, khi
trong lòng không có mong muốn nào mãnh liệt hơn là được
chìm đắm vào không gian của ông, được mặt đối mặt
với những nét cọ hằn in nội tâm ông. Từ sân bay, tôi
ghé qua khách sạn cất va li, thay chiếc váy màu vàng tôi
đặc biệt dành riêng cho cuộc hội ngộ này, và đi thẳng
tới bảo tàng Van Gogh.
Chiều
tháng Năm nắng dịu trong tiết cuối xuân đầu hè mát
mẻ. Tôi có thể lặp đi lặp lại một nghìn lần: tháng
Năm là tháng đẹp nhất ở châu Âu! Thiên nhiên vừa bừng
tỉnh đang say sưa pha màu điểm sắc trong những khu rừng,
vườn hoa, công viên, giữa những bình nguyên, sườn đồi,
hẻm núi, cả trên những chậu hoa nơi bao lơn, cột đèn,
thành cầu, hè phố... Những màu sắc hào phóng, tinh khôi,
tươi trẻ. Thiên nhiên mà Vincent từng yêu đến thế. Với
ông, „nghệ thuật là con người cộng thêm thiên nhiên”.
Ông viết cho em trai Théo: „Em hãy
gắng khám phá cái đẹp ở bất cứ nơi nào có thể;
phần lớn mọi người không nhìn thấy cái đẹp (…), em
hãy dạo chơi thường xuyên và hãy yêu thiên nhiên – chỉ
có bằng cách ấy mới có thể học được điều gì đó
và hiểu được nghệ thuật tốt hơn. Các họa sĩ hiểu
và yêu thiên nhiên và vì thế họ dạy cho chúng ta cách
nhìn ngắm thiên nhiên như thế nào”.
Vincent thường xuyên đi dạo nhiều giờ liền giữa thiên
nhiên, say sưa ngắm nhìn từng cánh bướm, từng chiếc
lá, từng con côn trùng. Tôi
chợt nhớ Bùi Giáng. Xin yêu mãi
yêu và yêu nhau mãi / Trần gian ơi cánh bướm cánh chuồn
chuồn / Con kiến bé cùng hoa hoang cỏ dại / Con côn trùng
sâu bọ cũng yêu luôn... Vincent
và Bùi
Giáng, hai kẻ rong chơi hoang dại, đều điên
rồ lừng lẫyi
đi qua cuộc đời này, đều yêu trần gian đến từng tế
bào xương tủy, đều ngang tàng tự do đến bất cần,
phá vỡ mọi quy ước, luật lệ, xóa nhòa mọi đường
biên quen thuộc, đều có sức sáng tạo bão lốc phi
thường, đều cô đơn và chẳng hiếm lần tuyệt vọng,
nhưng trên hết đều yêu tha nhân đến xót xa. Cả hai đều
đã trở thành những huyền thoại...
Gặp
gỡ với một huyền thoại, điều này mới thật khó khăn
làm sao. Tôi luôn tự hỏi mình: trong cuộc hội ngộ của
tôi với Vincent, bao nhiêu phần sẽ bị màn sương mù của
huyền thoại che phủ? Trong ánh mắt tôi nhìn những bức
tranh của ông, có bao nhiêu phần là cách nhìn mà truyền
thông, xã hội, văn hóa... đã định hướng và áp đặt
cho tôi? Làm sao tôi có thể „trò chuyện” với ông hồn
nhiên như với một người bạn? Làm sao tôi không cảm
thấy lo lắng và e ngại trước cuộc gặp gỡ với một
nhân vật khổng lồ đến thế? Những bản sao tranh ông
tràn ngập khắp nơi, trong các căn hộ, khách sạn, quán
xá, các thư viện, hiệu sách, quầy lưu niệm, thậm chí
cả trong các cửa hàng thời trang hay trên những chuyến
bay... Liệu tôi có tìm được gì nữa cho riêng mình khi
đến gặp ông ở một nơi chẳng còn mấy riêng tư? Chỉ
riêng năm 2015 đã có tới gần hai triệu người đến
thăm bảo tàng Van Gogh.
Nhưng
những hoài nghi ấy hoàn toàn tan biến khi tôi đứng trước
bức tranh Cây hạnh nở hoa
mà tôi hằng yêu thích trên tầng cao nhất của bảo tàng.
Màu xanh dịu của bản gốc là thứ màu sắc tôi chưa
từng thấy trong đời. Nó mềm mại và trong trẻo như
một ban mai mùa xuân tinh khiết. Mát rượi mịn màng như
manh lụa nhẹ vờn trong gió thoảng. Tinh khôi như chưa hề
trôi qua hơn một trăm năm. Chỉ còn tôi và bức tranh.
Hiện thực như đang tan ra trong một thứ dưỡng chất
trần gian tinh túy nhất. Có hề chi những xôn xao của
từng đoàn khách du lịch xung quanh. Có hề chi cả chặng
đường tôi đã đi qua để tới đây. Giây phút ấy tôi
thấy mình là người hạnh phúc nhất trần gian, bởi tôi
đã nhìn được thật sâu vào đôi mắt Vincent và tìm
thấy ở đó những tia sáng dịu dàng, ấm áp và không
ngừng trong trẻo. Cây hạnh nở
hoa là một
trong những bức tranh riêng tư nhất của ông. Nó chính là
bức chân dung tự họa thầm kín và vô cùng chân thực.
Một
bức họa rất riêng tư khác, nhưng hoàn toàn khác hẳn,
là bức Tĩnh vật với cuốn
Thánh kinh mở
ông vẽ vài năm trước, sau cái chết của cha mình. Cuộc
xung đột triền miên giữa hai cha con đã kết thúc bằng
họa phẩm tuyệt đẹp này. Quyển Thánh kinh của người
cha, bệ vệ, nặng nề, mở rộng ở chương 53 của Isaie.
Bên cạnh là chiếc chân nến với ngọn nến đã tàn,
thường là biểu tượng của memento
mori, của
cái chết, trong
hội họa thời xưa. Trước quyển Thánh kinh đồ sộ là
một cuốn sách nhỏ bé: „Niềm
vui sống”
của Emile Zola, tác giả Vincent yêu thích, người có cùng
quan điểm với ông khi cho rằng „nghệ thuật là một
góc thiên nhiên được nhìn qua tâm tình con người”.
Cuốn sách của Zola sờn rách cho thấy nó được đọc
thường xuyên. Sự sắp xếp màu sắc và chủ đề của
bức tranh là sự tương phản giữa hai thế giới xưa cũ
và đương đại, giữa tôn giáo và niềm vui cuộc sống,
với chiến thắng tối hậu thuộc về màu vàng chanh trên
bìa cuốn sách của Zola, màu vàng hẳn đã làm Théo choáng
váng, „như một tiếng thét, một
vệt sáng hay tiếng kèn trompet đang chế ngự cả một dàn
nhạc khổng lồ. Từ đây màu vàng, màu của niềm vui
sống, sẽ lớn dần trong hội họa Vincent.”ii
Tôi
gặp lại màu vàng Vincent trong bức chân dung tự họa đẹp
nhất của ông ở bảo tàng Van Gogh, vẽ năm 1888 vào những
ngày cuối cùng của ông ở Paris. Ông đứng trước giá
vẽ, „mái tóc như đồng lúa
chín vàng với những bông anh túc đỏ, trán, má và tay
lấm lem. Chiếc áo màu lam điểm những vệt vàng sinh động
(...) gợi nhớ bầu trời Van Gogh đầy sao. Giá vẽ màu
vàng, bảng pha màu màu vàng và những cây cọ màu vàng
không chỉ tiệp với màu râu ria lởm chởm và tương phản
với màu xanh lam của chiếc áo choàng, màu nền xám nhạt
và đôi tay màu đất, mà chúng còn báo trước sự khải
hoàn của „nốt màu vàng cao vút”, như chính lời ông,
nốt màu mà ông sẽ đạt tới vào mùa hè năm đó trên
những tấm toan tuyệt nhất từ Arles.”iii
Nốt màu
vàng cao vút ấy, hôm nay tôi mang trên mình để đến gặp
ông, bởi tôi muốn cuộc hội ngộ này phải tràn đầy
niềm vui sống. Vui sống, đó cũng là điều tôi thầm hứa
với Vincent, với chính mình, là món quà không bao giờ tôi
từ chối dành tặng cho riêng mình và những người tôi
thương yêu.
Với
tôi, chuyến thăm Amsterdam lần này trước hết là hành
trình theo dấu Vincent. Tôi đến Rijskmuseum để ngắm Các
viên chức
và Cô dâu Do Thái
của Rembrant mà Vincent đã ngồi nhìn ngắm hàng giờ khi
bảo tàng này mới mở cửa. Ông viết cho Théo: „Bức
Các viên chức là tác phẩm tuyệt
vời và hoàn hảo nhất của Rembrant; nhưng bức Cô
dâu Do Thái thật độc đáo, được
vẽ bằng bàn tay rực lửa. Em thấy đấy, Rembrant trong
Các công
chức trung thành với tạo hóa,
mặc dù ở đó, như mọi khi, ông trở nên thanh cao hơn,
thanh cao đầy sâu sắc, và thăng hoa bất ngờ. Nhưng
Rembrant còn có tài năng khác, khi ông không phải giữ đúng
chính xác nguyên bản như các bức chân dung đòi hỏi, khi
ông có thể chuyển động trong không gian của thi ca, trở
thành thi sĩ, tức là trở thành kẻ sáng tạo. Điều này
được thấy rõ trong Cô
dâu Do Thái. Delacroix sẽ hiểu
bức tranh này thế nào nhỉ? Một cảm xúc thanh cao làm
sao, một cõi thâm sâu không hề hữu ý! Phải sống đi
chết lại nhiều lần để có thể vẽ được như thế –
đó là những lời thích hợp cho bức tranh này.”
Nghệ
thuật vẽ chân dung với Rembrant là đỉnh cao chiếm một
vị trí quan trọng trong hội họa Hà Lan thế kỷ XVII, nền
hội họa mà Gombrich gọi là „chiếc gương soi của tạo
hóa”. Song đó không phải là một tấm gương chính xác
mà vô hồn. Phản chiếu con người hay phong cảnh thiên
nhiên luôn là phản chiếu tâm hồn của người nghệ sĩ,
những ý thích, niềm vui hay tâm trạng anh ta. Chính điều
này khiến cho vẽ tĩnh vật - lĩnh vực đặc sắc nhất
của hội họa Hà Lan – trở nên vô cùng thú vị. Các
họa sĩ Hà Lan đã cho thấy chủ đề của bức tranh chẳng
mấy quan trọng, các bức tĩnh vật trở thành nơi tuyệt
vời để họ thử nghiệm các giải pháp khác nhau cho
những vấn đề trong hội họa, ví dụ như cách thủy
tinh màu phản chiếu và khúc xạ ánh sáng, sự tương phản
và ảnh hưởng lẫn nhau của màu sắc và chất liệu...
„Tương
tự như có thứ âm nhạc vĩ đại không lời, tồn tại
một thứ hội họa vĩ đại với chủ đề rất khiêm
tốn. Những họa sĩ Hà Lan cả đời chuyên vẽ đi vẽ
lại những mô típ quen thuộc rốt cuộc đã chứng minh
rằng bản thân chủ đề chỉ có ý nghĩa thứ yếu.”iv
Chủ đề chỉ là thứ yếu, bậc thầy kiệt xuất nhất
trong việc chứng minh điều này là Vermeer. Tranh của ông
chính là các bức tĩnh vật với người, mà nổi tiếng
nhất là bức Cô gái rót sữa.
E.H. Gombrich viết: „Khó lý giải
được vì sao một bức tranh rất đơn giản không cầu kỳ
như thế lại là kiệt tác xuất sắc nhất mọi thời
đại. Phần lớn những người có may mắn được xem bản
gốc đều đồng ý với tôi rằng trong nó có một cái gì
như thể phép màu. Có thể miêu tả một trong những yếu
tố của phép màu ấy, nhưng không thể lý giải được
nó. Đó là cách Vermeer đạt được một cách chuẩn xác
khi diễn tả màu sắc, chất liệu và hình dạng, nhưng
đồng thời bức tranh lại không khô khan và mệt mỏi.
Như một nhiếp ảnh gia làm dịu đi sự tương phản mạnh
mẽ mà không cần làm nhòe hình khối, Vermeer làm mềm các
đường nét mà vẫn giữ được cảm giác vững chãi.
Chính sự kết hợp kỳ lạ, độc đáo giữa cái mềm mại
và sự sắc nét khiến cho các bức tranh đẹp nhất của
người nghệ sĩ ấy trở thành không thể nào quên. Chúng
cho phép ta thấu suốt cái đẹp bình yên của một cảnh
trí đơn giản và tưởng tượng người nghệ sĩ đã cảm
thấy điều gì khi quan sát làn ánh sáng rọi qua cửa số
và làm sống động màu sắc tấm vải.”
Tôi
đã là người may mắn được ngắm nhìn tận mắt phép
màu ấy, điều không một bản sao nào có thể đem lại
cho dù kỹ thuật cao đến đâu. Bản gốc Cô
gái rót sữa nhỏ
hơn tôi vẫn hình dung. Một khoảnh vuông be bé giữa
Rijskmuseum mênh mông mà như khiến cả thế giới trở nên
bất động. Trong bức tranh này, mọi thứ đều đứng
yên, chỉ có dòng sữa nhỏ xíu mong manh chảy ra từ chiếc
bình là chuyển động. Nó đã chảy như thế gần bốn
trăm năm. Thời gian không còn ý nghĩa gì nữa. Ánh sáng
hắt vào khiến nó sáng lên, hơi lấp lánh tinh nghịch,
như ánh mắt của Szymborska khi bà viết thi phẩm Vermeer:
Chừng
nào cô gái ấy, ở Rijksmuseum
trong
tĩnh lặng và chăm chú
ngày
qua ngày vẫn rót sữa
từ
bình ra âu,
thì
thế giới còn chưa xứng đáng đâu
với
ngày tận thế.
Phải,
chưa thể tận thế khi dòng sữa ấy vẫn chảy. Chưa thể
tận thế khi người ta vẫn còn có thể đắm chìm giữa
bao nhiêu bức họa kiệt tác trong Rijskmuseum. Tôi nhớ
Vincent đã viết cho em trai: „Khi
anh ở trong một môi trường khác, giữa những bức tranh
và các tác phẩm nghệ thuật, anh đã bất ngờ yêu ngay
môi trường ấy và như em biết, yêu tới mức nhiệt
thành. Anh không hối tiếc về điều đó, và hôm nay, khi
đang ở xa, anh cảm thấy nhớ về xứ sở những bức
tranh.”
Và
hôm nay, khi đang ở xa, tôi cũng đang nhớ về xứ sở
những bức tranh. Để giữ trong tâm hồn một dòng sữa
mát. Để ngân lên nốt màu vàng
cao vút
giữa thế giới bề bộn xung quanh.
(7.2016)
***