(Charles Baudelaire) |
Ta hãy thử viết về
nỗi chán một cách không chán. Không chán - ngoài những
đặc điểm khác - có nghĩa là ngắn thôi. Bản thân
chuyện về nỗi chán không chán cũng không vô nghĩa, bởi
nó bàn đến một trải nghiệm được biết đến rộng
rãi, cụ thể là trải nghiệm nói chung bị xem là tiêu
cực nhưng lại không thể gọi là đau khổ (ngoại trừ
những trường hợp cực đoan như việc tước bỏ nhân
tạo mọi xung động ham muốn của con người một thời
gian dài trong các thử nghiệm tâm lý học).
Tương tự như các
phẩm chất thẩm mỹ, nỗi chán là một hiện tượng xuất
hiện khi được trải nghiệm, song đồng thời có thể
gán cho khách thể được tri giác chứ không riêng cho kẻ
tri giác („tiểu thuyết này khiến tôi phát chán”, „tiểu
thuyết này chán”); bởi vậy, nói cho sang, nó thích hợp
với một xem xét mang tính hiện tượng luận.
Khi dừng lại ở cách
dùng thông thường của từ này, ta sẽ nhận thấy ngay,
thứ nhất, ta chỉ gán sự chán cho những gì kéo dài
trong thời gian: vở kịch chán, bản nhạc chán, bài lịch
sử chán, công việc chán, nói chung ta không nói tác phẩm
hội họa chán, thứ thường là ta nắm bắt được ngay
trong một cái nhìn. Phong cảnh chán, nghĩa là đơn điệu,
không có sự tương phản, nếu ta ngắm nhìn nó trong
khoảng thời gian dài, ví dụ khi đi tàu qua bình nguyên
phủ đầy tuyết. Từ góc độ khách thể, chán là sự
lặp lại chính một điều, hoặc là sự hỗn độn, thiếu
vắng sự khớp nối và ý nghĩa (song tiểu thuyết hay bi
kịch diễn tả thế giới trong hỗn loạn hoàn toàn không
nhất thiết phải chán: thí dụ Ulisses của Joyce, kịch
của Beckett và nhiều thứ khác). Từ góc độ người tri
giác, chán nghĩa là không có khả năng mong đợi điều gì
đó mới mẻ, là cảm giác hiện hữu (dẫu chỉ trong chốc
lát) trong một thế giới nơi sẽ không có gì xảy ra, tức
là nơi hoặc sẽ mãi như thế, hoặc nếu có gì đó xảy
ra thì người tri giác cũng thấy như nhau, nghĩa là như
chẳng có gì xảy ra.
Có thể khẳng định
rằng chẳng có gì tự thân nó là chán, bởi con người
khác nhau trong cách tiếp nhận những mảnh thế giới khác
nhau, và cảm giác chán của họ phụ thuộc vào từng
trường hợp, nhất là phụ thuộc vào kinh nghiệm từng
trải qua. Một bộ phim hoàn toàn thú vị có thể trở
thành chán nếu ta xem lại ngay sau khi xem lần đầu, bởi
những gì sẽ xảy ra ở đó đối với ta là đã xảy ra.
Ngay cả một người rất kém giáo dục về âm nhạc cũng
không cho một bản concerto cho vĩ cầm của Paganini,
concerto cho vĩ cầm của Tchaikovsky, concerto cho dương cầm
của Chopin là chán, nhưng lại có thể chán một số bản
giao hưởng của Brahm, mà người am hiểu sẽ không chia sẻ
cả ý kiến lẫn cảm nhận này, chắc chắn sẽ phê phán
sự vô minh của anh ta. Có thể một tác phẩm lịch sử
nào đó khiến tôi chán, nhưng lại lý thú với người
khác, bởi sự tiếp nhận của tôi là do tôi không thấy
sự tương phản, bởi vậy tôi không biết phân biệt nặng
nhẹ, mới cũ v.v. Một việc là chán đối với người
làm nó đã lâu và theo lệ, không nhất thiết chán đối
với người làm lần đầu. Ta hãy thử cố tạo ra nỗi
chán và đọc một cuốn sách bằng thứ ngôn ngữ mình
không biết trong suốt một giờ đồng hồ: ấy thế nhưng
cuốn sách đó có thể là tiểu thuyết của Agatha
Christie.
Dĩ nhiên, trong nỗi
chán cũng như sự chán ngán có một vùng đáng kể phụ
thuộc hoàn toàn vào các khuynh hướng và kinh nghiệm cá
nhân của chúng ta và không thể có được sự đồng
thuận. Vấn đề liệu có điều gì chán tự thân hay
không cũng tương tự như vấn đề của các phẩm chất
mỹ học: có phải chúng luôn luôn và tuyệt đối là dự
phóng cá nhân, hay chúng được phát hiện ra „trong sự
vật” bằng cách nào đó? Cả hai trường hợp đều có
phạm vi đồng thuận và phạm vi bất đồng, chắc chắn
vậy. Cả hai trường hợp cũng đều là về những phẩm
chất được giáo dục rèn luyện qua văn hóa; có lẽ thật
ra chả có gì là ngớ ngẩn trong giả định rằng khi các
phẩm chất đó được tri giác, luôn có sự tác động
qua lại giữa sự vật và tinh thần, và rằng câu hỏi
điều gì tuyệt đối có trước chẳng có mấy ý nghĩa.
Nói chung chúng ta cho
rằng chán không những là hiện tượng phổ biến ở loài
người – đây không phải là đặc quyền của Baudelaire
hay Chateaubriand – mà còn là đặc trưng của con người,
loài vật không có trải nghiệm đó (nếu chó nhà cũng có
trải nghiệm về nỗi chán, như chúng ta vẫn tưởng tượng
– dẫu làm sao có thể biết được điều đó? - thì
chắc hẳn chúng học điều đó từ chúng ta); khi các nhu
cầu sinh lý của chúng được thỏa mãn và không có sự
đe dọa nào, các loài vật nằm ườn không hoạt động
để không tiêu hao năng lượng vô ích, và chẳng có lý
do gì để giả định rằng chúng đang chán. Hơn thế nữa,
không rõ nỗi chán sinh ra khi nào và vì sao; tôi không cho
rằng trước thế kỷ XIX đây từng là một chủ đê văn
học hay triết học, mặc dù từ này đã tồn tại. Dân
quê ở các làng mạc sơ khai truyền thống, từ sáng sớm
đến tối mịt đầu tắt mặt tối chỉ để đủ ăn,
trong sự đơn điệu của công việc thường ngày, chỉ
sống một nơi suốt cuộc đời, họ có trải nghiệm nỗi
chán không? Tôi không biết, nhưng tôi hình dung rằng ngay
cả một phận đời như thế, chẳng có lấy một viễn
cảnh thay đổi, gần như phi thời gian, cũng không nhất
thiết phải gây ra cảm giác chán thường xuyên; luôn có
điều gì đó xảy ra ngoài lệ thường: con cái ra đời,
con cái chết, hàng xóm ngoại tình, bão, hạn hán, lụt
lội, hỏa hoạn, rất nhiều việc xảy ra bất ngờ, bí
ẩn, nguy hiểm hoặc ích lợi. Tóm lại, ngay cả trong
những hoàn cảnh có vẻ ù lì như thế, con người vẫn
có cảm giác rằng cuộc đời được ban tặng là ân
phước may mắn không thể khước từ.
Quả là cái bình
thường, sự đơn điệu của cuộc sống có thể bị xem
là chán. Ta hay nghe phàn nàn rằng tin tức trên các phương
tiện thông tin đại chúng thường xấu: thiên tai, giết
người, chiến tranh, sự dã man tàn bạo, khủng hoảng.
Câu trả lời thường là: chính thế, bởi khi người ta
giết anh Jan ngoài đường thì đó là tin mới, còn khi Jan
ăn sáng, đi làm hay về nhà thì không còn là tin mới nữa,
chuyện đó chán chết; nếu anh Jan li dị thì đó là tin
mới cho người thân bạn bè, còn nếu anh ta sống hòa
thuận với vợ thì chả có gì sốt dẻo, chán như con
gián. Tin mới là điều bất ngờ và ít khả năng xảy
ra, nhưng sự ngẫu nhiên thường bất lợi cho chúng ta;
nhưng gì ngẫu nhiên chủ yếu là những điều không hay,
cái hỗn loạn của thế giới không phục vụ chúng ta.
Lịch sử loài người là cuộc đấu tranh với sự ngẫu
nhiên, là nỗ lực giảm thiểu sự ngẫu nhiên trong cuộc
sống; nếu ngẫu nhiên thường tốt lành thì chẳng có lý
do gì để chiến đấu với nó. Quả thật là khi anh Jan
trúng xổ số, đó cũng là tin mới, nhưng đó là tin mới
tốt lành cho Jan, song là xấu cho tất cả những người
không trúng nhưng đã mua vé để Jan được trúng; bởi
vậy rốt cuộc đó là tin xấu.
Những người may mắn,
ví dụ những người dành phần lớn đời mình cho thư
sách, nói chung không thấy chán, nghĩa là họ không có cảm
giác thiếu ham muốn tìm tòi, họ luôn có thể tìm thấy
những ham muốn ấy. Những tưởng con người đương đại
không nên cảm thấy chán, bởi hầu như tất cả mọi
người đều có thể xem ti-vi, nghe đài, nghe nhạc và có
những thú tiêu khiển khác, nơi người ta dễ dàng tìm
thấy cái gì đó lý thú. Trong khi đó, ta có thể đọc
đâu đó, thí dụ, rằng các nhóm côn đồ trong các thành
phố ở nhiều nước phá phách vô mục đích, gặp gì đập
nấy, gặp ai đánh nấy, và chúng giải thích: vì chán.
Xem các bộ phim kích động, như ta thấy, là chưa đủ,
chắc hẳn bởi đó chỉ là sự xem thụ động, bởi không
thể rũ bỏ cảm giác giả tưởng, không trực tiếp tham
gia vào nó. Ngược lại, những cuộc phiêu lưu hấp dẫn
của các nhân vật truyền hình có thể làm tăng thêm nỗi
chán, tăng thêm cơn đói được kích thích và cả cảm
giác thiệt thòi: vì sao tôi không có cuộc sống thú vị
như anh chàng thám tử kia, vì sao tôi không giàu như Liz
Taylor? Phải làm gì đây với đám thanh niên tội nghiệp,
tuy không đói ăn thiếu mặc nhưng cũng không có chút của
cải nào, không có cuộc phiêu lưu thực tế hay giả tưởng
nào như của các minh tinh màn bạc? Phải hướng bản năng
tò mò và nhu cầu ham muốn của họ vào con đường „kiến
thiết”, để họ không giải tỏa chúng vào những cuộc
tàn phá thiếu suy nghĩ và những cơn lên đồng tập thể
trong các buổi hòa nhạc ầm ỹ ồn ào vô nghĩa, nói thì
dễ, nhưng phải làm thế nào đây?
Hiếu kỳ là bản
tính par excellence của
con người và thiếu nó thì chúng ta chẳng có lý do gì để
thoát ra khỏi tình trạng thú vật: hiếu kỳ, tức bản
năng khiến chúng ta tìm hiểu thế giới chỉ để tìm
hiểu, không lệ thuộc vào việc các nhu cầu sinh lý của
chúng ta có được đáp ứng hay không và chúng ta có muốn
tránh nguy hiểm hay không. Tương tự như trong trường hợp
nỗi chán, „hiếu kỳ” có thể là sự vật, và „hiếu
kỳ” cũng là tinh thần hướng đến sự vật đó; không
thể có cái này mà thiếu cái kia. Bởi „là người hiếu
kỳ” và „thú vị” trái nghĩa tương ứng với „là
người chán” và „chán”, có thể nói rằng hiện tượng
chán là cái giá chúng ta trả cho việc mình biết hiếu
kỳ; không có gì là thú vị đáng hiếu kỳ nếu không có
gì chán. Nói cách khác: chán là một phần không thể tách
rời trong nhân tính của chúng ta; hoặc là: thực kiện
rằng chúng ta có khả năng cảm thấy chán khiến chúng ta
có nhân tính. Cảm giác chán đánh thức nhu cầu thoát
khỏi sự chán, dĩ nhiên, sự thoát khỏi này có thể mang
tính hủy diệt, nhưng cũng có thể mang tính sáng tạo, và
trường hợp thứ nhất dễ dàng hơn. Chiến tranh thật
khủng khiếp, nhưng nó không chán và hàng bao đời nay
trong chiến tranh, bên cạnh các nguyên nhân khác, có phần
của nhiệt huyết chiến đấu để chống lại nỗi chán.
Hơn
thế nữa, bởi sự lặp lại dễ sinh chán, có thể e ngại
rằng những ham muốn hiện có như nguồn gốc của sự
hiếu kỳ sẽ luôn cạn đi và chúng ta sẽ luôn có những
ham muốn không chỉ mỗi lúc một khác hơn, mà còn mỗi
lúc một mạnh hơn, như những kẻ nghiện ma túy. Ta không
biết điều này có thể dẫn đến đâu.
Trường
hợp cụ thể của hiện tượng đang được xem xét là
„người chán”, một người rất khó miêu tả. Đó
không nhất thiết phải là một người không biết phân
biệt nặng nhẹ, kể lể đủ thứ với những chi tiết
thừa thãi và dở ẹc, người không biết châm biếm hay
hài hước, không thể dứt khỏi những sự việc chả
khơi dậy phản ứng nào xung quanh, không thể đưa vào
guồng cái cơ chế ảnh hưởng lẫn nhau với người khác;
vậy có lẽ anh ta không có khả năng tạo ra sự tương
phản trong giao tiếp chăng? Trong nghĩa này, anh ta rơi vào
tính chất chung của sự chán được nêu ra ở trên. Sẽ
là thừa thãi khi thêm rằng: là người chán hay không
chẳng liên quan gì đến học vấn hay tính cách tốt xấu.
Utopia,
tức tình trạng thỏa mãn tuyệt đối, thiếu vắng xung
đột và căng thẳng, dĩ nhiên, nếu đạt được, sẽ là
tận thế của loài người, là sự khô kiệt bản năng
hiếu kỳ. Chừng nào giống loài của chúng ta còn là
chính nó, chừng đó còn không thể dựng xây utopia. Dù
sao đi nữa, liệu có thể hình dung một „cáo chung của
lịch sử” với nghĩa như ông người Mỹ gốc Nhật nói
gần đây, tức thế giới trong đó không có bất cứ lựa
chọn tưởng tượng nào cho các định chế chính trị,
cũng không có chiến tranh và thiếu thốn, nghệ thuật và
văn học suy tàn, nỗi chán ngự trị khắp nơi? Tôi chẳng
lo lắng lắm về tính hiện thực của lời tiên tri này,
nhưng nếu nó trở thành hiện thực, thì hậu quả nhãn
tiền chắc hẳn không phải là sự đồng thuận với nỗi
chán vĩnh cửu, mà nhiều hơn là sự tìm kiếm lối thoát
liều lĩnh tuyệt vọng như của các băng đảng thanh thiếu
niên đã nhắc ở trên: ham muốn hủy diệt chỉ để hủy
diệt. Bởi vậy nỗi chán, như mọi hiện tượng phổ
quát khác của con người, xứng đáng được ngợi ca,
nhưng đồng thời cũng nguy hiểm.
(Trích từ tập "Các thuyết trình mini về những vấn đề maxi" (Mini wykłady o maxi sprawach), NXB Znak, Kraków 2008)