Thursday 7 January 2010

Herta Müller: Tôi đã luyện qua cái chết



(Angelika Kuźniak, phóng viên báo Gazeta Wyborcza (Ba Lan), trò chuyện với Herta M
üller trước khi bà nhận giải Nobel văn học vài tuần. Thái Linh dịch từ chuyên san Duży Format)

Angelika Kuzniak: Bà chỉ cho phép chụp hai tấm ảnh.

Herta Müller: Bởi đó là điều khó khăn đối với tôi.
Mỗi khi tôi đứng trước nhiếp ảnh gia, khi anh ta nói: quay bên phải, bên trái, cười, không cười... những lời của anh ta, dù thì thầm, luôn biến thành tiếng hét của các sỹ quan an ninh Romania. Những cuộc thẩm vấn của Securitate, cơ quan an ninh Romania, là không thể nào quên. Thay vì những cái cây mà nhiếp ảnh gia muốn làm nền để chụp ảnh cho tôi, tôi chỉ thấy căn phòng tối và ánh chớp đèn máy ảnh. Tôi nghẹt thở. Đôi khi tôi khóc.
Hơn nữa, đối với tôi, những tấm ảnh chưa bao giờ là thứ quá đáng yêu.

AK: Ngay cả những bức ảnh thời thơ ấu?

HM: Ngay cả chúng.
Người thợ chụp ảnh thường đến làng chúng tôi vào dịp lễ tết. Mẹ chải đầu cho tôi. Tôi nghĩ là các tấm ảnh nói nhiều về bà hơn là về tôi. Ví dụ như khi trong ảnh tôi có đường ngôi rẽ lệch, nhưng cả hai bím tóc vẫn cân nhau, thì tôi biết ngày hôm trước bố chỉ hơi say.
Có những bức ảnh cả bím tóc lẫn đường ngôi của tôi đều lệch, mặt méo xệch, đầu trông như bị bẹp. Điều đó có nghĩa là tối hôm trước bố tôi say đến mức lết bằng đầu gối, rằng ông đã dùng dao dọa dẫm mẹ tôi. Khi đó bà nói với tôi rằng tôi là cái nhọt trên bàn chân của bà, vì tôi mà bà không thể li dị được.
Trong các tấm khác đường ngôi và bím tóc đều ngay ngắn, cân đối. Có nghĩa là bố đã tỉnh táo trở về nhà. Khi đó mẹ thậm chí có thể quí tôi. Nhưng những tấm ảnh ấy không nhiều.
Khi chải đầu cho tôi, mẹ thường khóc.

AK: Còn bà thì khóc cùng mẹ.

HM: Đúng vậy, nhưng vì lý do khác. Mẹ tôi khóc vì người chồng nghiện rượu. Còn tôi khóc vì tôi muốn có mẹ. Đối với bà, tôi chỉ là một thứ đồ hạng hai. Bà bảo tôi đi lên phòng áp mái. Bà đưa cho tôi con dao to và bắt tôi thái dăm bông. Tôi mới mấy tuổi đầu. Tôi đi lên cầu thang và nghĩ: sao mẹ không sợ rằng tôi sẽ làm mình bị thương? Thỉnh thoảng tôi ở lại trên đó thật lâu, hy vọng mẹ sẽ quan tâm, thắc mắc tại sao tôi không xuống. Nhưng bà không bao giờ quan tâm. Khi rốt cuộc, tôi đứng bên bậu cửa nhà bếp, bà lấy lại con dao và dăm bông, không nói một lời.
Ngày ấy tôi muốn cố hiểu tại sao tôi lại là con của bố mẹ, khi mà họ không biết cách làm bố mẹ của tôi.
Thế chiến II kết thúc, một người lính SS, sau khi trở về nhà, đã sinh ra tôi.

AK: „Và tôi sinh ra trong chủ nghĩa Stalin” Bà thường nói vậy.

HM: Tôi sinh ra vào năm Stalin qua đời. Trong một làng nhỏ của người Đức ở vùng Banat, Romania. Bố tôi kể về chiến tranh như cuộc phiêu lưu lớn nhất đời mình. Khi say, ông hát những bài hát Quốc xã.
Tôi nhớ đoi giày bóng lộn của ông. Trước khi ra khỏi nhà, ông luôn nhổ nước bọt lên giày và dùng giẻ xoa nước bọt ra.
Là một đứa trẻ, tôi không để ý đến chuyện đó lắm. Tôi thường xoa nước bọt lên những chỗ muỗi cắn, lên cùi tay và đầu gối nứt nẻ. Tôi lấy tay thấm nước bọt xóa những vết bẩn trên quần tất hay trên da. Nước bọt dùng làm gì cũng tốt.
Sau này, khi đã học trung học rồi là sinh viên ở Timisoar, tôi đọc về kỷ luật quân sự trong SS. Tôi đọc Paul Celan, bài thơ về Auschwitz của ông, tôi nhìn bố đang nhổ nước bọt lên giày và nghĩ: ông đã học điều đó từ những kẻ Quốc xã.
Ông nhập ngũ năm 17 tuổi, phục vụ trong SS. Khi 17 tuổi, tôi nghĩ rằng mình cũng ở trong hoàn cảnh tương tự, trong chế độ độc tài.

AK: Chủ nghĩa xã hội đã tước đoạt tài sản của gia đình bà.

HM: Cho đến năm 1945, ông tôi có ruộng ở quanh làng. Ông buôn bán ngũ cốc và hàng hóa từ các thuộc địa. Sau quốc hữu hóa, gia đình ba thế hệ chúng tôi – ông, bà, bố mẹ và tôi - ở trong hai phòng. Các phòng khác để làm kho.
Ông tôi còn rất nhiều tập phiếu nhận hàng in sẵn. Trước kia ông viết lên đó những toa tầu hàng hóa, còn sau chiến tranh ông viết vào đó những thứ cần mua. Trong cột „tên hàng” ông ghi „diêm”. Cột tiếp theo: „số lượng toa / tấn” – ông ghi „một bao”.
Sau chiến tranh bố tôi làm kế toán viên, nhưng rồi ông cũng không thể làm công việc đó, vì ông là người Đức. Ông phải ra làm ruộng. Cuối cùng, ông trở thành tài xế xe tải.
Khi ông mất, cô y tá đưa cho tôi những dụng cụ nha khoa và cặp kính của ông.
Sau này, khi cô bạn thân của tôi chết trong trận động đất ở Bucarest, em cô đưa quần áo của cô cho tôi. Anh muốn tôi mặc chúng. Khi đó tôi hiểu rằng các đồ vật sống lâu hơn con người. Và rằng đó là điều không nên.
Tôi có người bác là lính Quốc xã. Vì ngưỡng mộ Hitler, ông đã tình nguyện nhập ngũ. Ông bị bom nổ tan xác, nhưng còn lại cái đàn arcodeon. Nó nằm trong phòng lớn, giữa giường và lò sưởi. Trông nó như một cái quan tài.

AK: Bác bà cũng để lại sách chứ?

HM: Hai quyển. „Buddenbrooks” của Thomas Mann và sách giáo khoa đạo đức theo tinh thần Quốc xã. Ông có tủ sách khá lớn, nhưng khi quân Nga sang, bà tôi đã đốt hết sách, bà cho rằng chúng có thể là nguyên nhân gây phiền phức. Nhà tôi là căn nhà không có bóng dáng sách, bản thân việc đọc là chuyện chẳng mấy quan trọng đối với gia đình tôi. Họ gọi tất cả những gì được in ra là sự dối trá. Còn viết sách ư? Mẹ tôi khẳng định điều đó sẽ dẫn đến căn bệnh thần kinh.

AK: Trong thời sinh viên bà gắn bó với nhóm văn học Aktionsgruppe Banat.

HM: Nhưng tôi không thuộc nhóm đó, khi đó tôi còn chưa viết, tôi chỉ thân với họ thôi. Richard Wagner, trưởng nhóm, sau này trở thành chồng tôi. Nhóm ngưng hoạt động vào năm 1975 vì bị sức ép của Securitate.

AK: Bà và các bạn đã làm gì?

HM: Chủ yếu là chúng tôi đọc. Vào những năm 60 ở Bucarest đã có Viện Goethe. Chúng tôi mượn sách ở đó. Có lẽ là chúng tôi đã đọc hết tất cả những gì xuất bản vào thời gian đó ở Đức, Áo và Thụy Sỹ. Chúng tôi muốn ít ra cũng hiểu được chuyện gì đang xảy ra, một khi chúng tôi không thể thay đổi được gì. Chúng tôi cho rằng nghệ thuật không thể quy phục chính quyền, rằng nó phải liên quan đến những trải nghiệm bản thân của tác giả.

AK: Điều này không thể làm Securitate thích thú.

HM: Riêng việc chúng tôi trò chuyện bằng tiếng Đức họ đã cho là nguy hiểm. Họ gọi chúng tôi lên thẩm vấn. Sau các cuộc thẩm vấn ấy, chúng tôi nghĩ ra cách chối những lời chính mình nói, không buộc tội người khác.
Phòng của chúng tôi bị nghe trộm, đâu đâu cũng bị nghe trộm.

AK: Bà và mọi người trở nên thận trọng hơn?

HM: Trước khi ra khỏi nhà, chúng tôi để sợi tóc lên tay cầm cửa, tay cầm tủ, để lên vở ghi chép trong ngăn kéo, để lên sách trên giá. Nhờ thế chúng tôi biết có ai lục lọi đồ của mình hay không. Người ta vẫn nói: “mỏng manh như sợi tóc”, “treo trên sợi tóc” v.v. Đối với chúng tôi đó không còn là các ngữ cú nữa. Chúng tôi biết rằng khi viết thư thì không được quên đề ngày tháng, và chúng tôi luôn cho sợi tóc vào phong bì. Nếu nó không còn, nghĩa là thư đã bị bóc.
Chẳng bao lâu sau, cái bầu không khí ngột ngạt ấy biến thành nỗi khiếp sợ.
Khi tôi hai mươi tuổi, tôi mua cho mình một chiếc xe đạp. Trong một lần thẩm vấn, viên sỹ quan điều tra nói: “Tai nạn có thể xảy ra trên đường”. Vài giờ sau tôi bị xe tải đâm. Hai ngày sau tôi nghe người thẩm vấn nói “Đúng vậy, đúng vậy, tai nạn xảy ra trên đường”.

AK: Sau khi tốt nghiệp đại học, vào năm 1976, người ta cử bà lên miền Bắc, sát biên giới Moldavia.

HM: Họ phân việc cho tôi ở đó. Nếu không nhận, tôi sẽ phải hoàn lại tiền học phí đại học. Họ chủ đích chia rẽ chúng tôi. Tôi về một làng nhỏ. Trong ngôi trường nơi tôi phải dạy học không có điện. Thay vào đó là một phụ nữ dạy tiếng Đức và không muốn có người cạnh tranh. Mọi người đều nhìn tôi một cách thù địch. Việc tôi từ chối bình giảng thơ Ceausescu hay không chịu nộp lệ phí công đoàn dã dẫn đến tình trạng các giáo viên căm thù tôi, chứ không phải căm thù chế độ. Không ai muốn bị bắt gặp là đang nói chuyện với tôi. Họ coi tôi như con điên.

AK: Sau đó bà bắt đầu làm việc trong nhà máy cơ khí ở Timisoar.

HM: Đó là năm 1978. Giám đốc nhà máy trước kia là nhà báo. Tôi biết ông hồi đi thực tập ở tòa báo. Ông tuyển dụng tôi. Tôi bắt đầu dịch các bản hướng dẫn sử dụng thiết bị dẫn nước. Rốt cuộc thì tôi cũng đã kiếm ra tiền.
Đến tận bây giờ, tôi vẫn nhớ những bữa ăn trong nhà máy. Dầu chảy ra từ các cỗ máy, còn chúng tôi, ngồi giữa các vũng dầu, lôi những lát bánh mì và mỡ lợn ra. Thêm một chai rượu vodka. Ai đó kể chuyện Ceausescu ăn bằng dao nĩa vàng. Chúng tôi chẳng cười nổi. Sau này, khi đã ở Đức, mấy lần tôi đã khóc trong tiệm ăn khi đồ ăn được mang ra. Lúc ấy tôi nghĩ về những bữa ăn trong nhà máy. Và về những thùng đá nơi người ta làm lạnh cổ gà, cánh gà, mào gà mà tôi không ít lần phải xếp hàng để mua. Người ta nấu xúp bằng những thứ đó.
Nhưng khi đó ở Romania chúng tôi không chỉ thấy đói bụng. Chúng tôi đói phát biểu và biểu lộ, đói nói lớn tiếng. Đói tiếng cười, đói sự ồn ào, những gì làm nên cuộc sống.

AK: Thế còn cơn đói tình yêu?

HM: Mọi người đều khát khao sự gần gũi. Chúng tôi tin rằng tình yêu có thể bảo vệ mình. Rằng đột nhiên, khi yêu, chúng tôi sẽ thôi là không-ai-cả. Tôi nghĩ rằng khi đó, tình yêu đã thay thế tự do.
Tình yêu ở Romunia là thứ khan hiếm.
Tôi đã có chồng, nhưng trước đó những người đàn ông khác nhau đã cố gắng quyến rũ tôi. Nhưng tôi biết, đó là tình yêu theo lệnh. Rằng Securitate cử họ đến vì muốn có được điều gì đó.

AK: Chính quyền đã chỉ đạo mọi thứ?

HM: Họ đã cố gắng làm vậy. Thời Ceausescu, việc nạo thai bị cấm, thuốc tránh thai cũng thế. Một người phụ nữ phải sinh năm đứa con rồi thì người ta mới cho nạo thai. Hoặc phải trên 45 tuổi.
Chính tôi cũng phá thai 2 lần.
Lần đầu là khi tôi còn làm việc ở nhà máy cơ khí. Tôi không thể phá thai ở bệnh viện, vì ở đó có các bác sỹ có liên hệ với cơ quan an ninh.
Trong nhà vệ sinh của nhà máy, cô bạn đồng nghiệp đặt vào tử cung tôi sợi dây nhựa của chiếc que đan vòng. Tôi phải đeo nó ba ngày. Một đầu dây được gắn dính vào đùi. Tôi mặc váy để tử cung được thoáng khí. Lần thứ hai thì cô bạn đồng nghiệp chỉ mang cho tôi sợi dây. Phần còn lại tôi tự làm một mình. Tôi ngồi trong nhà tắm, trước tấm gương đặt dưới đất.

AK: Vì sao bà không muốn sinh những đứa con ấy?

HM: Tôi biết rằng Securitate sẽ dùng chúng để uy hiếp tôi, rằng chúng có thể bị trừng phạt chỉ vì những gì tôi làm. Nhưng cũng có thể là vì tôi không muốn có con, tôi không rõ. Với tôi, việc mang bầu luôn là điều khủng khiếp. Khi tôi thấy một người phụ nữ mang bầu trong ký túc xá, cái bụng căng như quả bóng của cô là một thứ gì đó gớm guốc đối với tôi.

AK: Bà đã viết cuốn sách đầu tiên “Những vùng đất thấp” là ở nhà máy?

HM: Trong văn phòng, với sáu hay bảy người xung quanh,tranh thủ thời gian giữa các bản dịch. Tôi dậy lúc năm giờ sáng, sáu rưỡi tôi có mặt ở nhà máy. Thứ bảy và chủ nhật chúng tôi cũng làm việc. Cho đến tận hôm nay, khi viết, tôi vẫn cần những âm thanh của cuộc sống thường nhật. Tôi có thể viết ở nơi ồn ào nhất trong quán cà phê.
Ở nơi làm việc, tôi viết tay, sau đó đánh máy lại ở nhà. Thỉnh thoảng tôi ăn trộm giấy của nhà máy.

AK: Cái máy chữ ở đâu ra?

HM: Anh rể ở Đức tặng chúng tôi làm quà cưới. Mọi máy chữ đều bị mật vụ lập danh sách. Mỗi năm một lần chúng tôi phải mang nó đến ủy ban, gõ ra tất cả các chữ cái, giải thích mình cần nó làm gì và ai có thể dùng nó. Khi tôi xuất cảnh sang Đức, không ai trong số bạn bè tôi muốn lấy nó.
Họ sợ. Họ biết rằng người ta sẽ biết ngay nó từng là của tôi.

AK: “Những vùng đất thấp” nằm bốn năm trong nhà xuất bản.

HM: Và bốn lần, như người ta vẫn nói, được biên tập. Tôi liên tục nhận được danh sách những thứ cần bỏ đi.
Ví dụ, từ “va li” – nó gợi liên tưởng đến việc di tản – cấm. “Bụng”, không đứng đắn – cấm.
Nền chuyên chính rất chính chuyên, nên mọi thứ thân xác đều bị cấm.
Khi rốt cuộc cuốn sách được xuất bản vào năm 1982, nó đã bị biến dạng đến mức tôi cảm thấy hờ hững với nó.
Mãi hai năm sau nó mới được xuất bản ở Đức với bản gốc.

AK: Trong đó bà miêu tả tuổi thơ của mình ở một ngôi làng người Đức.

HM: Những người Đức thiểu số sống ở làng này, với cấu trúc cứng nhắc, trên nền chủ nghĩa xã hội dân tộc chưa được tiêu hóa.
Sau khi cuốn sách xuất bản, người ta lôi mẹ tôi lên thẩm vấn, những người nông dân cùng nông trường không muốn ngồi chung xe hay máy cày cùng bà, họ bỏ bà giữa đồng. Ông tôi cả đời cạo râu ở tiệm, bị cấm cửa vào tiệm cắt tóc.
Cuối cùng mẹ tôi đến Bucarest và xin tôi: Hãy để cho làng được yên, con không thể viết về điều gì khác à? Là mẹ phải sống ở đó, chứ không phải con.”

AK: Thế bà có về làng không?

HM: Rất lâu sau này. Nhưng khi người làng gặp tôi ở thành phố, họ nhổ nước bọt vào tôi. Tôi thôi không nói với gia đình mình đang làm gì. Họ không hiểu được ý nghĩa của sự mạo hiểm, vậy nên tôi cũng không muốn kéo họ vào đó.

AK: Cho đến một ngày khi Securitate nhớ ra bà.

HM: Họ đến nhà máy hai hoặc ba lần. Họ bảo tôi phải ký cam kết hợp tác. Lần đầu họ dọa đuổi việc, thậm chí dọa giết tôi. Lần thứ hai họ thân thiện hơn. Họ cố thuyết phục tôi rằng tôi sẽ là một người quan sát tuyệt vời về mọi người và cuộc sống. Lần thứ ba họ bắt đầu đọc cho tôi viết: “Tôi, Herta Müller, cam kết sẽ không cho ai, bất kể quan hệ ruột thịt...” Tôi từ chối. Tôi không thể sống với ý nghĩ rằng mình phản bội bạn bè.

AK: Họ có đuổi việc bà không?

HM: Không đuổi ngay. Suốt vài tuần, tôi bắt đầu một ngày bằng những cuộc nói chuyện với giám đốc và bí thư chi bộ. Họ khuyên tôi tìm công việc mới. Tôi trả lời rằng tôi thích ở đó. Nếu họ muốn đuổi tôi, họ phải nêu lý do bằng văn bản. Tôi trở về nhà và khóc. Nhưng không bao giờ khóc trước mặt họ.
Vài ngày sau họ chuyển tôi sang văn phòng khác như một nhân viên không đủ trình độ. Họ bắt tôi kẻ dòng trên giấy. Tôi làm việc đó tám tiếng một ngày. Cuối cùng họ không cho tôi vào văn phòng. Tôi ngồi ngoài cầu thang và cố gắng làm việc ở đó. Nếu tôi không làm vậy, họ sẽ sa thải tôi vì tôi không đi làm. Nhưng cuối cùng họ cũng tìm ra cách. Họ cho rằng vị trí làm việc của tôi là không cần thiết. Tôi hai mươi sáu tuổi và không một xu dính túi, tôi phải trả góp hàng tháng tiền mua tủ lạnh, thảm, đồ gỗ, nhà. Nhưng trước hết là tôi muốn làm việc.

AK: Họ có cho phép bà không?

HM: Ban đầu thì có. Sau khi bị đuổi khỏi nhà máy, tôi dạy tiếng Đức cho hai đứa con của người thợ làm áo lông của nhà máy ở Timisoar. Nhưng cơ quan an ninh cảnh cáo ông rằng tôi là kẻ thù của nhà nước. Ông đuổi tôi chẳng vì cớ gì.
Sau đó tôi bị sa thải ở vài trường học nữa. Khi đó tôi bắt đầu lang thang trong thành phố...

AK: ...và ăn cắp trong các cửa hàng.

HM: Nhưng không phải vì đói. Tôi ăn cắp cái gì đó của nhà nước, vì nhà nước đã ăn cắp cả cuộc sống của tôi. Nhà tôi chất đầy những chiếc khóa cài đồ lót, tách chén, dao nĩa. Tôi không cần những thứ đó. Bạn bè cảnh cáo tôi. Tôi biết nếu người ta bắt được tôi, ngày hôm sau ảnh tôi sẽ xuất hiện trên báo với dòng chữ: Kẻ cắp.
Tôi luôn không thích các ma-nơ-canh trong cửa hàng. Mãi tới gần đây tôi vẫn sợ chúng nhận ra tôi, tố cáo tôi ăn cắp. Tôi nhìn chúng như nhìn các điệp viên của Securitate, những kẻ dường như vô hình, nhưng chúng theo dõi và biết tất cả những gì xảy ra xung quanh.

AK: “Tôi bị gọi lên. Thứ năm. Mười giờ đúng.” Bà đã bắt đầu tiểu thuyết “ Hôm nay tôi không muốn gặp mình” như thế.

HM: Và họ gọi tôi lên. Để hạ nhục. Thường xuyên. Tôi bắt đầu bỏ khăn mặt, bàn chải, thuốc đánh răng vào túi xách. Kẻ thẩm vấn gọi tôi là cứt, rác rưởi, giun sán, chó cái. Đó là khi hắn cáu. Khi tâm trạng hắn tốt hơn, tôi là con đĩ hay kẻ thù. Khi tôi chỉ là thứ để hắn lấp đầy thời gian làm việc, tôi là giẻ rách. Hắn hỏi mấy tháng trước tôi làm gì. Tôi không nhớ. Hắn biết tất cả. Tôi luôn luôn có tội, không cần biết tôi đã làm gì và ở đâu.

AK: Bà có sợ không?

HM: Thực sự thì tôi có sợ một lần. Trên đường đến hiệu cắt tóc, tôi ngồi xuống băng ghế trong công viên. Một viên cảnh sát dắt chó đến gần tôi và hỏi giấy tờ, sau đó bắt tôi đi theo. Anh ta dẫn tôi vào tầng hầm của một ký túc xá sinh viên. Có bốn năm gã người của cơ quan an ninh đang ngồi bên bàn. Họ đang ăn sáng. Trên bàn có trứng, mỡ, hành. Viên chỉ huy của họ vứt giấy tờ của tôi xuống đất và tôi phải nhặt lên. Không biết bao nhiêu lần. Sau đó họ bắt tôi ăn. Khi tôi đã không thể ăn được nữa, họ nhét thức ăn vào miệng tôi.
Đột nhiên có ai đó bước ra từ cánh cửa bên hông.Tôi nghe thấy tiếng phụ nữ thét lên. Có thể đó chỉ là những tiếng ghi âm, nhưng tôi biết mình có thể là người tiếp theo. Nhưng không có chuyện gì xảy ra cả.
Họ chỉ luôn hỏi gì đó. Có lẽ là tôi đã phải nhắc lại họ tên của mình. Họ không đánh tôi.
Tôi sợ, vì tôi biết rằng không ai hay tôi đang ở đâu. Chồng tôi đang ở nhà, anh nghĩ rằng tôi đi cắt tóc.
Khi kết thúc hỏi cung, họ tuyên bố: làm đĩ. Theo những gì họ viết trong hồ sơ thì tôi có sáu hoặc bảy người tình Ả rập, những người trả cho chuyện làm tình với tôi bằng nước hoa.
Sau đó một người trong bọn họ đá tôi ra khỏi cửa. Tôi ngã sấp mặt xuống cỏ. Tôi nôn. Nôn ra trứng, mỡ, và nỗi sợ hãi của mình.

AK: Khi đó bà bắt đầu nghĩ đến chuyện tự tử?

HM: Tôi không rõ có chính xác là vào thời điểm đó hay không, nhưng có lẽ là năm 27 tuổi, khi tôi nghĩ mình sẽ kết thúc cuộc đời vô nghĩa này. Tôi nhốt mình trong nhà. Tôi sợ tất cả mọi thứ. Tôi nhìn cái tủ trong phòng và thấy nó tiến về phía mình. Tôi cần phải gặp bác sỹ thần kinh.

AK: Nhưng bà đã ra đứng trước bờ sông.

HM: Với hai túi áo nhét đầy đá lớn. Tôi nghĩ nếu mình tự tử, tôi sẽ trả thù được những kẻ mà tôi sợ. Nhưng cuối cùng thì tôi bỏ chúng ra. Tôi không biết tại sao. Nhưng tôi đã luyện qua cái chết.
Tôi nghĩ rằng tôi đã thoát chết vì cứng đầu. Tôi nhớ, khi còn ở nhà máy, có người của cơ quan an ninh đến, hắn khóa trái cửa văn phòng tôi lại và đe dọa tôi. Tôi tự nhủ, một khi Securitate đã muốn dìm chết tôi đến thế, tôi sẽ không ban cho họ điều đó.

AK: Những tháng cuối cùng trước khi xuất cảnh sang Đức, bà thậm chí không mang đến nhà xuất bản quyển sách “Con người chỉ là một chú gà lôi trong thế giới này” , trong đó bà miêu tả những người Đức sống trong một làng nhỏ.

HM: Nó sẽ là bản án cho tôi. Trong đó, tôi miêu tả những cố gắng chạy trốn khỏi cái nhà tù toàn trị là nước Romania của Ceausescu.

AK: Bố mẹ làm mất sự trong trắng của con gái để cắt đứt với Romania, thể hiện lòng tự hào là người Đức của mình bằng những lời: “Đồ sâu bọ Romunia. Chúng thậm chí không biết cách cho lợn ăn.”

HM: Bố mẹ tôi cũng nói tương tự như thế. Chúng tôi, người Đức, luôn là ưu việt hơn, sạch sẽ hơn, chăm chỉ hơn người Romania. Năm 15 tuổi, khi đi học trung học rồi sau đó học đại học, tôi gặp người Romania và biết điều đó dối trá đến mức nào. Họ cũng là những người như chúng tôi.

AK: Các nhân vật chính trong tiểu thuyết “Trái tim bé mọn” của bà bị bắt buộc phải di tản khỏi Romania.

HM: Tôi cũng đã không muốn di tản. Tôi luôn nhắc lại trong một thời gian dài, ngay cả khi bị thẩm vấn: chỉ có một người phải ra đi – tên độc tài; tất cả mọi người khác sẽ có thể ở lại.Tôi nghe thấy họ nói rằng nếu tôi không thích ở đây, thì đi mà đến vũng lầy tư bản đó, đấy là chỗ của tôi.

AK: Bà nộp đơn xin xuất cảnh năm 1985, bà đi năm 1987.

HM: Suốt hai năm đó họ không cho phép tôi xuất bản. Tôi không thể đi sớm hơn, vì nhận xét của nơi làm việc quyết định chuyện ai đó có được cấp giấy phép đi hay không. Mà nhận xét của tôi là: không hòa hợp với đồng chí, ý thức chính trị kém. Đó thậm chí là nhận xét sau hai tuần làm việc trong trường học.
Năm 1987 tôi đã ở nơi giới hạn của sức chịu đựng. Việc viết rồi cất vào ngăn kéo khiến tôi thất vọng.
Nhưng khi các cuốn sách của tôi bắt đầu được xuất bản ở Đức và tôi được một số giải thưởng, chính quyền đã không còn muốn làm gì thì làm đối với tôi. Nhiều khả năng là khi đó họ cho rằng tôi phải ra đi.

AK: Nhà ga dành cho việc xuất cảnh nằm gần biên giới Hungaria.

HM: Có 200 người đợi tàu. Chúng tôi phải ngồi trong phòng chờ, chỉ được phép ra sân ga khi được viên cảnh sát gọi. Tôi sợ có điều gì đó sẽ xảy ra, sợ mình không đi được. Mãi tới khi đã qua biên giới, tôi mới thở phào.

AK: Nhưng chẳng được bao lâu.

HM: Đúng thế. Họ dọa giết tôi cho đến tận khi Ceausescu bị lật đổ. Các điệp viên của Securitate thường gọi điện, gửi những bức thư đe dọa cho tôi. Họ có thể tìm ra tôi ở mọi nơi. Đôi khi họ gọi điện trước khi tôi đến một thành phố nào đó. Tất nhiên, tôi tự trấn an rằng chắc họ không dám giết tôi, nhưng tôi cũng biết mọi chuyện đều có thể xảy ra.
Năm 1987, sau khi tới Đức, tôi sống ở Tây Berlin ba năm.
Sau một năm, sở an ninh quốc gia gọi tôi lên. Họ cho tôi xem ảnh một người đàn ông và quyển sổ tay. Trong đó có ghi tên tôi. Họ khuyên tôi không nên đi tới quán rượu với người Romania. Họ nghi ngờ người đàn ông này đến để giết tôi theo chỉ thị của mật vụ Romania.
Mùa xuân năm 1989, một người bạn gái của tôi đến thăm tôi và Richard Wagner, khi đó là chồng tôi. Cô ở nhà chúng tôi. Cô biết một ngày của chúng tôi bắt đầu từ khoảng 7 rưỡi đến 8 giờ, bằng bữa sáng cùng ăn chung với nhau trong bếp. Sau đó mỗi người vào phòng riêng để viết. Viết trên máy chữ, bằng tiếng Đức.
Một ngày, cô thú nhận rằng cô đến theo chỉ thị của Securitate để cảnh cáo tôi rằng nếu tôi không ngừng việc nói xấu về Ceausescu như vậy, họ sẽ giải quyết tôi. Tôi gói ghém hành lý và đưa cô ra ga. Tôi không muốn nói chuyện với cô. Sau nhiều năm, trong hồ sơ của Richard Wagner có những câu như sau: “rõ ràng là họ viết một cách không gắng sức, vì hầu như không có những tờ giấy bị vứt vào sọt rác. Họ nói rằng họ viết những gì họ muốn, chỉ có thế thôi.”

AK: Bà đến Berlin cùng mẹ.

HM: Khi đó mẹ tôi 61 tuổi. Thời gian đầu rất khó khăn.
Những thứ đơn giản nhất cũng làm chúng tôi sợ: trước đây chưa bao giờ chúng tôi dùng máy rút tiền tự động hay toa lét bỏ xu.
Trong những ngày đầu tiên, tôi tưởng tượng mình đang ở trong phim. Tôi nhớ rõ những ngày trong trại tạm trú. Tôi đi hết từ cửa này sang cửa khác với tờ giấy mà người ta gọi là giấy báo. Theo thứ tự được ấn định. Hai cánh cửa đầu là Cục Điều tra Liên bang. Tôi gọi chúng như vậy, dù thực ra chúng gắn tấm biển: Phòng kiểm tra A và B.
Trên một số cánh cửa mà phía sau chúng, người ta tiếp dân tị nạn, có những miếng giấy dán“ „Tôi tiếng Đức không hiểu hoàn toàn“. Các công chức người Đức cho rằng như thế là hài hước.
Rốt cuộc, tôi trở thành một con số nào đó trong danh sách người tị nạn.

AK: Bà có nhớ căn hộ đầu tiên của mình ở Đức không?

HM: Tôi nhớ những căn phòng đầy chật đồ gỗ. Chúng lấp đầy nỗi sợ hãi của tôi. Như thể dưới chân tôi không có sàn nhà. Ở Romania cái gì cũng thiếu, bởi vậy chúng tôi muốn có mọi thứ càng nhiều càng tốt. Dưới sàn và trên tường là những tấm thảm màu, cái bàn bao giờ cũng nằm giữa phòng. Đấy là một điểm tựa.
Khi đó tôi nghĩ, để sống trong một căn hộ trống trơn, người ta cần có nội tâm mạnh mẽ.

AK: Thế căn hộ hiện nay của bà trông ra sao?

HM: Không có quá nhiều đồ trong đó.

AK: Năm 1989, Elena Ceausescu nói trước khi chết: „Tôi yêu các người như yêu con ruột của mình“.

HM: Tôi xem trên ti vi và đã khóc. Khó lòng ngăn chặn được việc hành hình. Nhưng họ đáng bị như vậy. Suốt 20 năm tôi cầu mong cho Ceausescu chết. Tôi nói điều này mặc dù tôi là người chống án tử hình.
Khi đó, trước khi bị hành hình, lần đầu tiên, ông ta là một con người bình thường, và Elena cũng vậy – với tấm khăn đội đầu xộc xệch. Tôi nghĩ: lạy Chúa, tôi đã sống sót. Ông ta đã chết, nhưng tôi còn sống.
Tôi cũng khóc vì những người bạn đã không còn.

AK: Đặc biệt là vì ai?

HM: Ở Romania, có một người bạn thân đến thăm chúng tôi mỗi ngày. Anh là kỹ sư xây dựng. Trong hồ sơ của mình mà tôi nhận được sau nhiều năm, hoàn toàn không có anh. Họ tên anh đã bị gạch đi, như thể anh chưa hề tồn tại.
Anh gửi những mẩu giấy đến Berlin cho tôi. Tôi van xin anh đừng gửi nữa, tôi lo sợ cho anh.
Trong mẩu giấy cuối cùng mà anh gửi vài tuần trước khi chết, anh viết một câu, chữ bé li ti: „Thỉnh thoảng tôi phải cắn ngón tay để cảm thấy rằng mình vẫn còn sống“.
Không lâu sau, người ta tìm thấy anh bị treo trong nhà vệ sinh. Khi đó anh hai mươi tám tuổi. Hàng xóm nói ban đêm họ nghe thấy tiếng vài người la hét. Không ai đến cứu. Trong giấy chứng tử ghi: tự vẫn.

AK: Chính là sau cái chết của anh, bà mua tấm bưu thiếp trên đó người ta chỉ dẫn cách thắt cà vạt?

HM: Phải, và nó vẫn luôn nằm trong ngăn kéo bàn viết. Tôi không thể gửi nó cho ai, nó gợi cho tôi quá nhiều liên tưởng về anh. Tôi nghĩ nếu mình cứ nhìn vào những sợi dây thừng ấy, nỗi sợ sẽ biến mất.

AK: Nó có biến mất không?

HM: Không. Có lẽ lại tệ hơn. Sau cái chết của anh tôi tránh các sợi dây thừng. Trong xe buýt, tôi không chạm vào các tay nắm dưới dạng dây thừng. Nếu có cái áo khoác treo trên mắc, tôi sẽ thoáng thấy đôi chân anh phía dưới. May là chúng biến mất sau một thoáng.

AK: Hình như bà không thích từ „tổ quốc“.

HM: Tôi không phải là một người Đức thực sự, nhưng tôi cũng không phải là một người Romania thực sự. Tôi xuất thân từ một nơi lơ lửng ở giữa.
Trong các cuốn sách của mình, tôi chưa từng viết một câu tiếng Romania.
Romania và Đức xa lạ với nhau đến mức không có gì trong chúng cũng như trong tôi ngày ấy và tôi bây giờ có thể hội ngộ mà không thương tổn.

AK: Bà có thường về Romania không?

HM: Không thường xuyên. Tôi có vài người bạn ở đó, nhưng tôi đã không gặp họ từ lâu. Khi chúng tôi gặp nhau, tôi cảm thấy có khoảng cách. Có một lời buộc tội không ai nói ra, rằng tôi đã ra đi.

AK: Cách đây vài tuần bà hoàn thành cuốn sách tiếp theo của mình.

HM: Vâng. Đó là cuốn sách về những cuộc trục xuất người thiểu số Đức. Sau chiến tranh, Romania đã ngụy tạo lịch sử của mình. Trong các cuốn sách, nó luôn đứng về phe đồng minh. Nhưng sự thật là điều đó xảy ra chỉ hai ngày trước khi chiến tranh kết thúc. Trước đó Romania đứng về phe Hitler. Tháng giêng năm 1945 quân Xô viết lập danh sách và đem những người Romania gốc Đức về xây dựng đất nước mình. Oskar Pastior, một chàng trai 17 tuổi bị đem đến các trại tù lao động khổ sai Xô viết. Cuốn sách này tôi viết về ông. Tôi viết nó gần 7 năm. Ba năm là các cuộc trò chuyện giữa tôi và ông. Oskar luôn nói: chúng ta phải làm việc, vì tôi không có nhiều thời gian. Ông mất năm 2006, trong khi dự hội chợ sách Franfurt. Ông thọ 79 tuổi, không ốm đau gì.
Sau khi ông mất, tôi không muốn viết. Sau một năm, tôi mới tự ép mình viết. Tôi quyết định tạ từ ông bằng cách ấy. Cuốn sách này rất riêng tư còn bởi vì mẹ tôi khi là một cô gái 19 tuổi đã phải vào trại ở bể than Donbas, trên lãnh thổ Ucraine ngày nay. Khi ấy tóc bà thắt bím dài. Sau đó họ cạo đầu bà. Vì hai lý do: có chấy hoặc ăn cắp khoai tây. Bà đã ăn cắp để khỏi chết đói.
Khi bà trở về và vào những ngày chủ nhật, chúng tôi gọt khoai tây, bà luôn canh chừng để tôi gọt thật mỏng và để vỏ không bị đứt. Nó phải liền một mạch.
Tên tôi là Herta vì đây là tên người bạn thân nhất của mẹ trong trại. Cô đã chết ở đó.

AK: „Nỗi sợ hãi trước câu văn, sự chán nản – gần như là ghét cay ghét đắng - đối với việc viết lách, đó là lý do duy nhất khiến tôi làm công việc này.“

HM: Bởi viết là sự đối nghịch của cuộc sống. Khi viết, theo một nghĩa nào đó, tôi không tồn tại. Với tư cách một con người, tôi không được phép quan tâm đến mình. Thường thì tôi không viết sách quá lâu, vì tôi không thể chịu nổi áp lực đó. Khi viết, tôi phải có mặt nơi nội tâm tôi đau đớn nhất, nếu không, tôi sẽ không cần phải viết.
Đó như là một cuộc lang thang trên lưỡi dao sắc, giữa việc tiết lộ và giữ bí mật.
Sau khi kết thúc một cuốn sách, tôi không viết ít nhất là hai năm.

AK: Khi đó bà làm gì?

HM: Những tác phẩm cắt dán. Chuyện này bắt đầu từ việc trong vô số những chuyến du hành, tôi muốn gửi chút gì đó của mình thay vì bưu thiếp. Trên tàu, tôi dán các mẩu ảnh và các từ, câu cắt từ báo ra lên tờ giấy trắng. Tôi thích đọc thơ của Theodor Kramer và Inge Müller.
Bây giờ trong tủ tôi có hàng nghìn từ được cắt ra.
Ngoài ra thì sao ư? Tôi sống. Bởi sống thật là đẹp. Cho dù cuộc sống có đẹp hay không.

1 comment:

Khuê Việt said...

Một bài dịch đẹp. ;)