Sunday 31 May 2009

Tình yêu (Hanna Krall)


Hanna Krall sinh năm 1937. Bà tốt nghiệp khoa báo chí ĐHTH Warszawa. Bà là nhà văn, nhà viết xã luận, chuyên về phóng sự mô tả cuộc sống hàng ngày của những con người bề ngoài bình thường. Từ năm 1955 bà làm việc cho nhật báo "Đời sống Vac-sa-va" (Zycie Warszawy) và cho tờ "Chính trị" (Polityka). Hanna Krall được nhận nhiều giải thưởng có giá trị, trong đó có Giải Thưởng Lớn của Quỹ Văn Hóa, một trong những giải thưởng cao quý nhất tại Ba Lan.

Cuốn sách nổi tiếng nhất của bà "Kịp trước Chúa Trời" ra đời năm 1977, là ghi chép các cuộc nói chuyện của tác giả và bác sỹ M. Edelman, một trong những người lãnh đạo của khởi nghĩa khu Do Thaí ở Warszawa. Cuốn sách mở ra mảng đề tài Do Thái, đề tài được nối tiếp trong những tác phẩm sau đó của bà như "Phép thôi miên", "Điệu nhảy trong đám cưới người khác", "Nơi đó không còn dòng sông nào"... Mô-tip chính ở đây là sự đan bện của số phận những con người, phần lớn các câu chuyện đề cập đến vấn đề sự giống và khác nhau của lịch sử Ba Lan - Do Thaí - Đức, đặc biệt là trong thời kỳ Đại Chiến II và những năm ngay sau chiến tranh.

Các tác phẩm chính: "Phiá đông Arbat" (1972) "Kịp trước Chúa Trời" (1977), "Sáu sắc thái của màu trắng" (1978) "Người phụ nữ thuê nhà lại" (1985) "Phép thôi miên" (1989), "Cửa sổ. Những khó khăn khi thức dậy" (1990), "Điệu nhảy trong đám cưới người khác" (1993) "Điều gì đã xảy ra với câu chuyện cổ tích của chúng ta ?" (1994) "Bằng chứng tồn tại" (1996) "Nơi đó không còn dòng sông nào" (1998) "Vậy là anh, Daniel" (2001).

"Tình yêu" là một tác phẩm trong cuốn "Nơi đó không còn dòng sông nào" - tuyển tập các phóng sự siêu hình với đề tài Do Thái. Cuốn sách đã nhanh chóng được xếp vào danh sách bestseller tại Đức, và đã được đề cử giải thưởng Nike năm 1999, một trong những giải thưởng văn học quan trọng nhất của Ba Lan.

(Thái Linh dịch và giới thiệu)


Tình yêu

1.

- Hãy kể cho tôi nghe chuyện gì đó - Tôi đề nghi.

( Sau mỗi cuộc gặp gỡ với bạn đọc tôi đều kết thúc như vậy : "Hãy kể cho tôi một câu chuyện ... chuyện thật ... quan trọng ... của người khác hoặc về chính mình...")

Tôi tắt micro.

Im lặng bao trùm.

Mọi người suy nghĩ xem họ có biết câu chuyện nào quan trọng không. Và xem họ có muốn thổ lộ nó cho tôi không.

Thông thường họ kể với lời lẽ lộn xộn, một cách khó khăn.

Một phụ nữ ở Goteborg tiến đến, bà có đôi mắt cận màu xám và dùng từ rất cẩn thận:

- Alicja, cô giúp việc người Ba Lan, đã yêu Meir, chú tôi. Cô ấy đã cứu chú. Cô đã chết vì nhớ chú. Chú tôi giống Rudolf Valentino.

Bà trao cho tôi tấm danh thiếp "Helen Zonenshein - giáo sư triết học". Bà mỉm cười thận trọng, theo kiểu Bắc Âu.

- Suốt đời tôi mang theo mình Alicja, cô giúp việc người Ba Lan.

2.

Rudolf Valentino...?

Trong ảnh trông ông có vẻ nhàm chán.

- Đôi mắt ... - bà Giáo sư kể - tuy rằng là mắt hạnh nhân. Còn cử chỉ... và thân hình mảnh dẻ .... Cô nhận ra chú ấy ngay.

Nhận ra không khó.

Chú cúi chào. Chú quỳ gối. Chú khiêu vũ. Và những nụ cười quyến rũ, những biến hóa, cải trang...

Chú ấy có chọc tức ai không à? Sao - chọc tức là thế nào? Mọi người say mê chú. Họ yêu chú. Cả thế giới đều yêu quý chú, có thể là trừ những người đàn ông làm ăn với chú.

Trong làm ăn chú ấy cũng cứ như là ở trong phòng khách: chú quyến rũ, không giữ uy tín và không nhớ những lời hứa.

- Meir - những người anh van vỉ - nghiêm túc lên nào.

Những người nghiêm túc là anh em nhà Zonenszajn. Các con trai của ra-bin(1) thành Radom, người tha thiết muốn hợp nhất truyền thống Ba Lan và Emanuel Kant. Modernity and tradition phải hoà nhập, nhưng Radom đã không biết đến modernity. Radom không cần ra-bin nữa và cả gia đình chuyển đến Warszawa. Họ bán buôn và bán lẻ: bột mỳ, lúa mạch, cá mòi, gạo. Họ nhập khẩu mạnh cá mòi từ thị trường Bắc Âu - báo chí viết về doanh nghiệp "Anh em nhà Zonenszajn".

Bởi vậy David, người anh buôn bột mỳ, cha của sáu đứa con, nói:

- Meir, khi nào thì chú mới trưởng thành?

Icie, buôn lúa mạch, cha của bốn đứa con, nói:

- Meir, khi nào thì chú ...

Szlomo, buôn gạo, cha của hai con:

- Meir ...

Aron, cha của cô con gái một, bé nhất trong gia đình, giáo sư triết học tương lai, Aron buôn cá mòi và ngư phẩm:

- Meir!

Các anh đều nghiêm túc và trưởng thành, nhưng khi Aron - nhỏ bé và tẻ nhạt - bước vào phòng khách, chẳng ai vui hơn lên. Không ai biết Aron đã đến hay chưa. Khi Meir bước vào, mọi người bừng sáng lên và cả thế giới trở nên đáng yêu.

3.

Chú Meir lấy một cô thợ may giàu có, đẫy đà, với mái tóc dài màu sáng và cái cổ ngắn. Họ thuê người giúp việc. "Cô sen", khi đó mọi người gọi như vậy. Cô ấy từ quê ra. Cô có đôi mắt tinh nhanh, nụ cười thân thiện và môi trên hơi dẩu ra, không cân đối.

Alicja, cô sen nhà quê, đã yêu mê mệt chú Meir.

Chúa ơi. Tất cả đàn bà con gái đều yêu chú ấy, nhưng không thực sự. Không ai nghiêm túc với chú Meir, không một ai cả - trừ cô sen nhà quê.

4.

Trong thời gian chiến tranh Alicja tỏ ra can đảm và tháo vát. Cô giải quyết giấy tờ giả, mua chuộc quan chức...

Nhờ có Alicja họ đã ra được khỏi gết-tô(2) - chú Meir, Aron anh của chú, và gia đình họ.

Chú Meir ra sau cùng. Chú sợ. Chần chừ đến phút cuối, nhưng chuyến ra đi của chú rất đáng nhớ. Chú mặc đồ cưỡi ngựa, đi giày cao cổ, mặc áo khoác may từ tấm chăn kẻ ô vuông sặc sỡ - và một gã cùng đinh kéo chú đến cái cổng gần nhất.

- Tiền!

Chú Meir lôi tiền ra từ một chiếc giày và đưa cho gã. Chú lôi từ chiếc kia ra - và đưa. Gã đếm, cất đi...

- Tôi có thể đi chứ ? - chú Meir vừa hỏi vừa run.

Gã lại lôi ví ra, đếm và đưa cho chú một nửa chỗ tiền:

- Của anh đây. Anh cũng phải sống chứ.

Khi mà cả thế giới đều yêu chú, lẽ nào gã cùng đinh lại không yêu mến chú cho được?

- Hãy đi đi và hãy sống - gã nhắc lại, vỗ vai chú Meir.

Vậy là chú Meir đi. Và chú đã sống.

5.

Alicja để mọi người ở khu a-riat. Cô mang thức ăn cho họ. Cô dẫn thầy thuốc đến. Cô bị bắt khi mang thịt lậu từ quê ra. Cô đã ở trong trại tập trung Oswiecim. Tại đó cô gặp Gienia, em họ của chú Meir.

"Tôi tự làm cho mình cái cốc màu xanh có quai đan - sau chiến tranh Gienia viết thư từ Jerusalem cho gia đình ở Oslo - Hôm đó khi trời còn tối đen, trước giờ điểm danh, tôi chạy vào bếp, Alicja lấy muôi và cạo cháy xúp từ đáy nồi cho tôi..."

6.

Những người đã chết:

David, người buôn bột mỳ, cùng với vợ và sáu con,

Icie, buôn lúa mạch, cùng với vợ và bốn con,

Szlomo, buôn gạo, cùng với vợ và hai con.

Những người sống sót, nhờ có Alicja:

Chú Meir cùng vợ và con gái,

Aron, anh chú Meir, cùng vợ và con gái (giáo sư triết học tươnglai),

Gienia, em họ chú Meir.

7.

Họ gặp mặt tại Lodz: các gia đình sống sót và Alicja.

Họ quyết định xuất cảnh.

Cần phải làm gì đó với Alicja trước khi ra đi.

Họ tìm được chồng cho cô - chú ta ô-kêi.

Có hình chú ta trong tập ảnh gia đình. Tóc sáng, cằm không có ngấn, cái nhìn thành thật và chiếc mũi to hếch lên.

- Chú ta không xấu trai - Helen kể - không đẹp trai. Không ngu ngốc. Không thông minh. Chú ta ô-kêi. Biết giữ lời hứa và hoàn toàn không giống Rudolf Valentino.

8.

Họ nói:

- Như thế là tốt nhất, Alicja thân yêu a. Cô sẽ xây dựng gia đình, sẽ sinh con đẻ cái. Nếu được, hãy đến Na Uy thăm chúng tôi một ngày nào đó...

Alicja đã nghe lời với sự thông hiểu. Cô xây dựng gia đình. Cô sinh con đẻ cái.

- Chúng tôi sẽ nhớ cô suốt đời, Alicja thân yêu...

Họ đã giữ lời hứa. Họ gửi tiền từ Oslo, hoa quả từ Israel.

"Gienia yêu quý, tôi đã nhận được đô la ...." - Alicja viết trong tấm thiệp mừng năm mới.

" Đã nhận ..." - Alicja viết trong biểu mẫu Ngân hàng PKO, nội xuất.

"Chúa ơi, sao số phận lại ác nghiệt với tôi thế? Tai sao chúng ta không ở bên nhau? Hãy viết thư cho tôi với, để tôi trưởng thành lên. Tôi đã trưởng thành rồi, bởi vậy mọi thứ với tôi thật nhọc nhằn... Nhưng kỳ lạ thay, tôi tin rằng một ngày nào đó tôi sẽ được sống cùng với mọi người..." Alicja viết.

"Đã nhận...."

"Tôi đã nhận đô la."

"Tôi xin báo cho quý vị tin buồn. Vợ tôi hiện đang ở trong bệnh viện tâm thần..." Chồng Alicja viết thư đến Oslo.

9.

Hai chủ đề luôn luôn có mặt trong gia đình Helen: Alicja và tất chân phụ nữ.

Tất chân phụ nữ là chủ đề dễ chịu. Aron hiểu biết về tương lai tươi sáng của chất liệu ni-lon, Meir thu phục cho chúng các bà chủ hiệu quần áo. Aron đánh giá đúng ý nghĩa của quần tất, Meir thu phục cho chúng... Aron có tầm nhìn, Meir có duyên. Doanh nghiệp "Anh em nhà Zonenshein" buôn bán rất tuyệt.

Alicja là chủ đề buồn bã.

- Alicja thế nào rồi ? – Mẹ Helen hỏi với vẻ quan tâm - Mọi người có nhận được thư không?

- Alicja không được tốt – Vợ Meir trả lời và thở dài thành tiếng.

- Có tin tức gì của Alicja không? - Chú Meir hỏi.

- Tin xấu, rất xấu - cha Helen hạ giọng trả lời buồn bã,

- Tại sao cả nhà không mời cô ấy đến? - Helen hỏi - cô ấy nhớ mọi người đấy.

- Đến Oslo à? - Mọi người ngạc nhiên - Cô ấy sẽ làm gì ở đây?

- Rõ rồi - Helen nói - đó chỉ là một cô nhà quê Ba Lan. Một cô nhà quê Ba Lan thì có thể làm gì với mọi người ở Oslo chứ?

- Đừng có kêu lên - mẹ bảo - chúng ta biết ơn cô ấy. Chúng ta sẽ giúp đỡ cô ấy. Có thể làm gì hơn được...?

"Khi mới bị bệnh tôi có khuynh hướng tự sát, bây giờ hết rồi... Tất nhiên là tôi phải tránh xúc động. Con trai đến bệnh viện thăm tôi một năm hai lần. Khi chồng tôi làm thủ tục ly dị, anh ấy nhận chăm sóc tôi, nhưng bây giờ anh ấy không quan tâm đến tôi nữa. Nếu mọi người sẵn lòng thì hãy cho tôi hoặc là quần áo cũ, hoặc là chanh hay cam, vì thuế hải quan thấp..." Alicja viết.

Bức thư cuối cùng từ Ba Lan do người chồng cũ của cô viết:

"Tôi xin thông báo với quý vị tin buồn. Alicja không còn nữa."

Helen Zonenshein bỏ trốn khỏi nhà.

Cô làm bồi bàn, giữ trẻ và kiếm tiền mua vé sang Mỹ. Cô sống ở California cùng với những thanh niên Do Thái khác cũng bỏ trốn khỏi nhà.

10.

Họ đi đất. Họ cài hoa lên tóc. Họ lặp đi lặp lại I love you và kể về những gia đình tư sản mà họ căm ghét.

Helen kể về Alicja.

- Đối với họ cô ấy là cô nhà quê Ba Lan. Cô ấy đã đem họ sang phiá a-riat, nhưng cô ấy vẫn là cô nhà quê Ba Lan...

- Cô ấy đem họ đi à? Đi đâu? - những thanh niên Do Thái ở Mỹ hỏi.

Ra-bin Shlomo Carlebach trông coi họ. Ông chơi đàn ghi ta và kể về các xađức, các thánh nhân của ông. Các thánh nhân sống cách đây một trăm hoặc hai trăm năm, còn những thành phố mà họ đã thuyết giáo thì có những cái tên lạ lẫm: Izbica, Turzysko,

Gostynin, Kock...

Mordechaj ở Izbica dạy chúng ta: Khi yêu, tình yêu của bạn sẽ đem người đến từ thế giới thường nhật và từ thiên đường...

Shlomo Carlebach nói, còn Helen nghĩ về tình yêu của Alicja.

Jechiel ở Gostynin trước khi cầu nguyện đã cho một người Do Thái lạ mượn chiếc khăn của mình. Người lạ trả lại chiếc khăn ướt đẫm nước mắt. - Đừng lo - anh ta nói - đến mai nó sẽ khô - Tôi không muốn nó khô - Jechiel la lên - Tôi không bao giờ muốn nó khô trở lại nữa. - Hãy thu dọn đi - người lạ nói -Mendel ở Kock đang đợi anh. Họ cùng ra đi và Jechiel trở thành đồ đệ của xađức nổi tiếng ở Kock.

Shlomo Carlebach đã kể như vậy, còn Helen nghĩ về nước mắt củaAlicja.

Abraham ở Turzysko không ngủ và không ăn. Mọi người hỏi ông nguyên do. Ông trả lời: - Khi tôi lên chín, cha tôi Mordechaj, xađức ở Czarnobyl, đã đánh thức tôi lúc rạng sáng, thắng ngựa và chúng tôi ngồi lên xe. Chúng tôi đi vào rừng. Trong quãng rừng thưa tôi nhìn thấy một túp lều. - Con hãy giữ dây cương - cha nói. Ông đi vào túp lều và trở ra với một người đàn ông trẻ. Gương mặt buồn của người trẻ tuổi toả hào quang. Anh ta lắng nghe chăm chú những lời cha tôi nói. - Anh có chắc rằng đó chính là điều anh muốn nói với tôi không? - anh ta hỏi. Cha tôi quả quyết - Tôi chắc - và cả hai oà lên khóc. Họ ôm vai nhau và khóc mãi không ngừng. Cuối cùng họ từ biệt và cha tôi leo lên xe. Chúng tôi lên đường, không nhìn vào mặt nhau.

Khi thấy căn nhà của chúng tôi từ xa, tôi hỏi: - Cha ơi, người đó là ai? - Mesjasz. Đó là Mesjasz, con trai của David - Ông ấy muốn gì ở chúng ta? - Ông ấy hỏi đã đến lúc chưa, ông ấy đã đến được chưa. Cha đã phải nói cho ông ấy một sự thật khủng khiếp: không còn ai mong đợi ông ấy cả.

Nếu như các người nhìn thấy Mesjasz, nếu các người biết rằng ông ấy không đến với chúng ta vì không ai mong đợi ông ấy cả - thì các người có ăn và ngủ được không? - Ra-bin Carlebach kết luận thay cho Abraham ở Turzysko. Còn Helen nghĩ về gia đình mình. Mesjasz để làm gì, khi mà mọi người thậm chí đã không mong đợi Alicja.

Carlebach nói chuyện thông thái và hát hay, nhưng Helen không muốn nghe những bài hát mê hoặc. Cô muốn đọc sách - và cô đến Berkeley.

Cô học xong đại học. Làm xong tiến sỹ. Trở thành giáo sư triết học. Cô quay về Oslo.

Cô nhìn thấy chú Meir trên ghế bành, sau khi bị xung huyết. Chú không khó tính. Không than phiền. Không đòi hỏi gì cả. Chú ngồi với nụ cười hạnh phúc, lặp đi lặp lại một từ:

- Hiné...Hiné

Tiếng Hê-brơ có nghĩa là:

- Nào, hãy nhìn kìa …

Như thể chú nhìn thấy những thứ đẹp diệu kỳ.

Chú chết lặng lẽ.

- Hiné - chú thì thào, nhắm mắt lại và mỉm cười, say sưa.

Vài giờ sau ai đó nhận ra:

- Meir chết rồi.

Ai đó nói:

- Cái chết nhẹ nhàng. Chúa yêu Meir.

Đó là Aron, cha của Helen.

Trong giọng nói của ông lộ rõ sự ghen ti.

Thậm chí Chúa cũng yêu Meir.

Còn ai sẽ yêu những người nhỏ bé, tẻ nhạt, chắc chắn và nghiêm túc...?

Goteborg.

-------

Chú thích (ND):

(1) ra-bin: giáo sỹ Do Thái

(2) gết-tô: Khu dành riêng cho người Do Thái

No comments: